Yeruldelgger đã tìm cho cô một chỗ trên chuyến bay ZY 955 từ Eznis tới Dalanzadgad vào lúc bảy giờ sáng. Trên chiếc Saab 340 hai động cơ bé nhỏ chỉ có ba mươi tư chỗ này, đó quả là một phép mầu. Thông thường toàn bộ chỗ đều được đặt trước nhiều tuần. Và còn kỳ diệu hơn nữa là ông đã tìm được cho cô chỗ bay về ngay buổi chiều trên chuyến 956. Vào mười bảy giờ, cô sẽ quay về Oulan-Bator.
Solongo thích máy bay cánh quạt. Cô tìm thấy trong tiếng ồn của động cơ và nhịp rung của khoang máy bay cảm giác yên tâm từ sự bướng bỉnh động vật. Chiếc máy bay hai động cơ bám vào bầu trời như con bọ cánh cứng ương ngạnh. Nó cũng bay thấp hơn các máy bay phản lực từ ba đến bốn nghìn mét, và thêm một lần nữa Solongo tin chắc rằng đất nước Mông Cổ của cô thật đẹp. Khi chiêm ngưỡng từ trên không vẻ bình yên bao la này, trái tim cô ngập tràn hạnh phúc vì được sinh ra và sống tại đây.
Họ bay qua Dalanzadgad để có thể hạ cánh xuống đường băng bằng đất từ phía Nam, và vòng lượn rộng đưa họ bay trên các đụn cát của sa mạc Gobi. Máy bay nghiêng cánh, và cô tì trán vào cửa sổ máy bay để nhìn biển cát mênh mông bất động vàng óng dưới ánh nắng chiếu là là của vầng mặt trời đang lên.
Sân bay Dalanzadgad chỉ có độc nhất một đường băng đất nện ngắn nằm trên dải đất thảo nguyên, và nhà ga ở cuối đường băng cũng chỉ là một tòa nhà nhỏ màu xanh lam và trắng nằm bên đường. Bức tượng không hợp chỗ của một con lạc đà bằng đồng thau đặt trên bãi cỏ cằn cỗi bị gió và cát thiêu đốt đóng vai trò làm vật trang trí.
“Cuối tuần này em có làm gì không?” Yeruldelgger đã hỏi vậy.
Solongo tưởng họ có thể dành hai ngày bên nhau để chăm sóc cho Saraa và thủ thỉ tâm sự ngoài vườn. Ông đã trả lời là ông sẽ tìm ai đó trông coi con gái mình, nhưng ông cần cô điều tra vụ việc liên quan đến linh hồn bé bỏng mà ông già du mục đã phó thác cho ông. Cô do dự rất lâu, viện cớ là cô cần hoàn tất rất nhiều hồ sơ, trong đó có một vụ ngộ sát với Chuluum, vào ngay sáng hôm sau. Yeruldelgger đã tìm được cho cô mỗi hồ sơ một cái cớ. Khi cuối cùng cô cũng đồng ý, ông đã thu xếp tất cả, kể cả việc thuê sẵn xe tại chỗ.
Một người đàn ông có bộ dạng như phường trộm cắp đang chờ Solongo và không nói không rằng đưa cho cô chìa khóa chiếc xe jeep to kềnh. Chiếc xe đỗ ngang phè, đầu quay về phía thành phố. Solongo lập tức nổ máy, quay đầu làm chiếc xe jeep nhảy chồm chồm trên đường mòn rồi lao đi theo hướng ngược lại, để người đàn ông đứng bất động giữa đám bụi đỏ. Đi được chừng năm trăm mét, sau mấy căn lều trắng cuối cùng được che chắn khỏi gió cát nhờ những rào chắn bằng gỗ màu đen, con đường vỡ tung ra thành một loạt lối mòn hỗn loạn, tất cả đều hướng về phía Đông Bắc, như thể mỗi chiếc xe từ trước tới giờ đều muốn vạch cho mình lộ trình riêng trên thảo nguyên. Solongo chọn lấy một vệt đường và đi theo nó mà không bận tâm tới các vệt đường khác hết nhập vào rồi lại tách ra như những đường ghi tại một ga đầu mối. Một tiếng nữa cô sẽ tới Bayanzag, nơi cô đã trải qua phần lớn thời thơ ấu để đào bới trong đất đỏ, tìm những mảnh xương khủng long.
Các khe núi ở Bayanzag chẳng có vẻ gì giống với vách núi cheo leo như các hướng dẫn viên du lịch mô tả. Chúng còn không cao hơn mấy đụn cát ở Khongor Els. Đó là phần còn lại của một ngọn đồi đất đỏ bị gió và những cơn dông làm xói mòn. Đó là đáy của một đại dương đã khô cạn từ sáu mươi triệu năm trước và giờ đây tan chảy dưới ánh mặt trời và sự nhặt nhạnh của khách du lịch. Không hẳn là vách núi, nhưng Vách đá Cháy vẫn thực sự rực lửa dưới ánh hoàng hôn. Solongo cảm thấy tiếc vì không thể ở lại đến khi trời tối. Cô rất thích ngắm nhìn khe núi nhỏ này sáng rực trong ánh mặt trời chiếu là là và hình dung về hóa thạch đang yên nghỉ của những sinh vật khổng lồ đã biến mất dưới lớp đất rực lửa đó. Có lẽ để lần khác vậy. Hôm nay, cô cần cố gắng đem những câu trả lời về cho Yeruldelgger, vì thế cô chạy xe theo con đường mòn men dọc một sống núi, nơi những người bán đồ lưu niệm và xương khủng long cắm lều.
Khi cô nhìn thấy căn lều đầu tiên, một cậu bé mặc trang phục truyền thống đã đợi sẵn. Cậu bé có vẻ thất vọng khi thấy cô là người Mông Cổ. Vì chỉ có thời gian trong ngày để điều tra, cô quyết định đi thẳng vào việc.
“Xin chào, cậu em. Chị tìm thứ tương tự như cái này,” cô vừa nói với cậu bé vừa cho cậu ta xem cái răng khủng long raptor giả mà cô đã lấy từ nắm tay cô bé. “Cậu em đã bán thứ này phải không?”
Câu hỏi này quá thẳng thắn, ngay cả với một cậu bé. Cậu ta lập tức cảnh giác và thận trọng giữ im lặng, mắt không rời khỏi cái răng.
“Chị là hướng dẫn viên ở Oulan-Bator,” Solongo bịa chuyện. “Chị sẽ đưa đến đây một nhóm hai mươi người Pháp và chị muốn tặng cho họ mỗi người một cái răng. Cậu em có biết chị có thể tìm được thứ này ở đâu không?”
Cậu bé bất ngờ im lặng quay ngoắt lại rồi chạy vào trong lều của mình. Solongo thấy một bàn tay vụng về nào đó đã viết Bảo tàng Khủng long lên tấm toan mộc phía trên cửa lều đang mở. Cô đi theo cậu bé và khám phá ra trong lều cả kho báu nho nhỏ đích thực về xương và hóa thạch, đa phần trong đó trông có vẻ rất thật, có cả những quả trứng hóa thạch trong một cái tổ phục dựng.
“Tất cả những cái này là của cậu em sao?” cô kinh ngạc thốt lên. “Chính cậu em đã tìm thấy chúng sao?”
Cậu bé gật đầu xác nhận trong khi bận bịu lật giở cuốn Bách khoa toàn thư thời tiền sử về khủng long đã cũ, một cuốn sách hình nổi dành cho thiếu nhi. Sau đó, cậu ta quay về phía cô, mở cuốn sách ra ngay dưới mũi cô, làm nổi lên từ các nếp gấp khéo léo cái miệng phàm ăn của một con raptor.
“Những cái răng không giống thế, chị thấy không? Đây không phải là răng raptor!”
“Chị biết,” Solongo tán thành,. “cậu em rất sành về khủng long. Thực ra đây còn chẳng phải là một cái răng nửa kia!”
“Em biết!” cậu bé trả lời đầy tự hào. “Đây là một mảnh xương được đẽo thành hình cái răng! Họ làm ra những thứ này ở đằng kia, trong hai cái lều đằng sau quả đồi thứ hai. Họ có một xưởng chế tác, nhưng không có bảo tàng như của em đâu!”
“Cảm ơn cậu em. Chị cần tới xem qua cái xưởng đó, nhưng chị sẽ quay lại tham quan bảo tàng của cậu em và xem cuốn sách này với cậu em. Chị hứa đấy.”
“Như chị hứa sẽ tới cùng hai mươi người Pháp chứ gì?”
“Phải, đúng rồi, chị xin lỗi, chị hơi nói dối một chút. Nhưng chị sẽ quay lại, chị thề đấy!”
“Người ta chẳng bao giờ nói dối một chút cả,” cậu bé nhún vai triết lý. “Người ta nói dối, đơn giản vậy thôi!”
Solongo rời khỏi căn lều. Thảo nguyên vẫn còn gần như vắng tanh. Các hướng dẫn viên du lịch chỉ bán tour tham quan tại khu vực Vách đá Cháy vào tầm cuối buổi chiều để khẳng định xác thực hơn sức hấp dẫn ‘rực lửa’ của các vách núi. Chỉ có một chiếc xe ô tô lại gần từ phía Đông Nam, cũng theo con đường mòn cô đã đi. Và cô nhìn thấy một người cưỡi ngựa đứng im lìm ở rất xa về phía Bắc, trên đỉnh một quả đồi nhỏ.
Khi cô tới gần hai căn lều, một người phụ nữ chờ cô trước khung cửa rộng mở của căn lều thứ nhất. Bà ta cầm một cái khay nhỏ đựng các mảnh đá và xương. Căn lều còn lại lớn hơn, và đằng sau cửa lều đóng kín Solongo nghe thấy tiếng rít của một dụng cụ, có vẻ là máy hoặc đĩa mài. Đằng sau lều có một con ngựa bị buộc bằng dây thừng đang nhìn cô chằm chằm.
“Xin chào,” nữ bác sĩ pháp y lên tiếng. “Tôi muốn mua thứ giống cái này. Có phải chị bán không?”
“Ồ, cái này à?” người phụ nữ đáp đầy cảnh giác. “Ở đây chỗ nào mà chẳng thấy thứ này.”
“Không phải như cái này đâu. Đây là một món đồ giả. Đây là một cái răng được đẽo từ xương, chị thấy không!”
“À phải!” người phụ nữ nói, giả bộ như vừa nhìn ra. “Đây là một món đồ lưu niệm cho khách du lịch. Chúng tôi không được phép bán hóa thạch thật, cô biết mà!”
“Vâng, tôi biết. Vậy đúng chị là người chế tác ra chúng, phải không?”
Người phụ nữ không biết trả lời thế nào, và như những người Mông Cổ trên thảo nguyên vẫn làm khi họ không biết trả lời thế nào, bà ta đứng im lặng trước mặt Solongo.
“Nghe này, tôi không đến đây để gây phiền toái cho chị, tôi chỉ muốn tìm kiếm một người đã mua vật này, vậy thôi. Có thể chị đã bán nó cho người đó. Cách đây năm năm rồi. Năm năm trước chị đã ở đây chưa?”
Lần này thì rõ ràng người phụ nữ sẽ không trả lời bất kỳ điều gì nữa. Bà ta chỉ đứng đó, bất động, hai mắt cúi gằm. Solongo đưa mắt nhìn quanh. Người cưỡi ngựa vẫn ở đó. Có vẻ như ông ta đã bám theo cô suốt con đường chạy trên đỉnh đồi. Cô nhận ra ông ta đang quan sát họ từ trên cao. Việc theo dõi của những người du mục luôn xuất phát từ tò mò, và Solongo không cảm thấy chút đe dọa nào. Trái lại, một dự cảm không hay thôi thúc cô quay đầu lại. Chiếc xe ô tô cô mới trông thấy lúc nãy đã dừng lại cách khá xa. Người lái đã xuống xe và đang gọi điện thoại di động, chống khuỷu tay vào cửa xe để mở. Cả ông ta cũng có vẻ đang quan sát họ.
Cô liền đi vòng qua căn lều thứ nhất và hướng thẳng tới căn lều còn lại, mở cửa mà không gõ trước. Bên trong lều cũng giống như mọi không gian sống truyền thống khác, với bếp nằm ở giữa lều và những món đồ nội thất bằng gỗ sơn, nhưng ở sâu trong góc trái, nơi theo truyền thống được dành cho khách, một người đàn ông đang ngồi làm việc tại góc xưởng thợ nhỏ tạm bợ, mài giũa và đánh bóng những mẩu xương giữa một đống lộn xộn hộp và dụng cụ.
“Xin chào,” cô lên tiếng, không để cho ông ta kịp ngạc nhiên. “Tôi cần con ngựa của ông để phi nước đại một vòng. Tôi thuê nó theo giá ông muốn, đồng ý chứ?”
Người đàn ông không trả lời. Ông ta tháo hai chiếc kẹp nối món dụng cụ của mình với một chiếc ắc quy ô tô và đưa mắt nhìn cô nhưng không đứng dậy.
“Ông đừng lo,” Solongo nói thêm. “Tôi đã lớn lên ở đây. Tôi cưỡi ngựa thành thạo và sẽ tôn trọng con ngựa của ông. Thế nào, bao nhiêu?”
“Năm trăm?” người đàn ông đánh liều.
“Đắt đấy, nhưng đồng ý. Tôi để cái xe của mình lại làm tin. Tôi sẽ trả tiền cho ông khi quay về. Thêm một trăm nữa nếu chuyến đi ngựa thú vị.”
Solongo rời căn lều không nần ná thêm và vòng ra sau lều để tháo dây buộc ngựa. Cô thúc con ngựa phi nước đại thậm chí từ trước khi ngồi vững trên yên để chứng minh với người đàn ông theo dõi mình rằng cô là kỵ sĩ giỏi. Con ngựa có nước chạy đều đặn, sải bước ngắn và nhanh, như lướt đi trên cỏ. Cô vươn thẳng người trên đôi bàn đạp, thúc giục con vật bằng những tiếng tchu, tchu truyền thống của thảo nguyên, và hướng nó về phía người cưỡi ngựa đơn độc nọ.
Người đàn ông quan sát cô leo lên triền dốc tới gặp mình mà không hề nhúc nhích. Khi lại gần, cô nhìn thấy cây gậy urga dài ông kẹp chặt dưới nách. Từ trên lưng ngựa của mình, cô đoán ông không còn trẻ nữa. Một người cưỡi ngựa già nua đang theo dõi bầy gia súc chăn thả rải rác của mình. Hẳn là lũ ngựa, bị những người du mục đuổi theo và bắt bằng thòng lọng treo ở đầu chiếc sào dài bằng gỗ liễu. Thúc ngựa leo lên triền dốc cuối cùng, Solongo tìm cách quan sát chiếc xe và người lái xe phía sau cô. Cả người lẫn xe chưa hề nhúc nhích, song cô vẫn nhận thấy người nọ luôn quan sát mình.
Người đàn ông trên lưng ngựa đúng là một ông già du mục, ngồi thẳng người trên chiếc yên bằng gỗ, người bó chặt trong chiếc áo truyền thống dày cộp bằng bông màu xanh lam được thắt lại bằng chiếc thắt lưng to bản màu cam. Ông lão nhìn cách cưỡi ngựa của Solongo đầy tán thưởng khi cô dừng phắt con ngựa đang đà phi nước đại cách ông chừng vài mét.
“Chào cụ,” cô vừa lên tiếng vừa khống chế con ngựa vẫn còn đang bức bối vì cuộc chạy.
“Cần cẩn thận với những cái lỗ chuột chũi,” người kỵ sĩ già đáp. “Chúng chắc chắn sẽ làm con ngựa của cô bị vấp đấy!”
“Cụ nói đúng, nhưng cháu thèm một vòng phi nước đại quá. Ở Oulan-Bator chẳng mấy khi cháu có cơ hội thế này.”
“Cô từ đó tới đây để đặt câu hỏi về một cái răng khủng long à?”
“Làm sao cụ biết cháu hỏi cái gì?”
“Gió chẳng bao giờ biết giữ bí mật!” ông lão đáp với vẻ cùng đồng lõa.
“Thế gió nói cho cụ biết gì nữa không ạ?”
“Cô tìm người đã được người ta cho cái răng mà cô đang giữ trong túi.”
“Thật không may, người từng có cái răng này đã chết, thưa cụ…”
“Cô bé con tóc vàng đã chết rồi sao?”
“Cụ biết cô bé ạ?”
Ông lão tiếp tục bất động một hồi, ánh mắt hướng lên bầu trời tuyền một màu xanh thuần khiết, hai bàn tay đặt lên ụ yên, cây gậy urga dài bằng gỗ kẹp dưới cánh tay. Solongo tự hỏi ông lão đang cầu nguyện cho cô bé hay đang cố tập hợp các ký ức lại.
“Hồi năm năm trước, vào mùa xuân. Một chiếc xe UAZ 452 màu xanh lam lắp kính. Họ cắm trại trong bốn ngày cạnh vách núi ở Bayanzag, ngay phía dưới chỗ này. Một đôi vợ chồng trẻ, người nước ngoài. Không phải từ miền Đông. Họ nói một thứ tiếng nghe rất hay. Không phải tiếng Anh. Cũng không phải tiếng Nga. Cũng không phải tiếng Đức. Cô vợ rất đẹp, tóc vàng. Cắt ngắn như tóc đàn ông. Cao ráo. Ngực đẹp. Người đàn ông đeo kính. Nhiều tuổi hơn, nhỏ người hơn, tóc đen. Họ quan tâm tới khủng long. Cô bé con, chừng bốn năm tuổi. Xinh xắn, dễ thương, tóc xoăn. Cô bé chơi đùa suốt cả ngày trên chiếc xe đạp ba bánh màu hồng bé nhỏ mà người bố lấy từ trong xe ô tô ra. Cô bé cũng hay bị mắc kẹt trong các lỗ chuột chũi. Tiếng cười của cô bé ngân vang như tiếng chuông nhỏ vậy. Ta đã quan sát họ từ chỗ này. Ta tin là họ rất hạnh phúc.”
“Cụ còn nhớ biển số chiếc UAZ không?”
“Không, không nhớ lắm. Là biển số Oulan-Bator thì chắc rồi, và ta nhớ có hai số may mắn trùng nhau: trong biển số có hai số 9.”
“Thế còn ai đã đưa cho họ cái răng?”
“Người bán hàng giả dưới kia. Chính người đang chế tác ra chúng trong lều của mình.”
“Làm thế nào cụ biết được?”
“Hồi ấy là mùa xuân. Đến ngày thứ tư trời mưa suốt cả ngày. Ta thấy chiếc UAZ của họ bị sa lầy khi cố trở lại đường mòn. Ta đi xuống để giúp họ. Người bán hàng giả đã cố gắng đến cùng để bán thêm thứ gì đó cho họ. Ông ta dúi cái răng giả vào tay cô bé và nói với bố mẹ cô bé rằng đó là một vật lấy may truyền thống, và nó sẽ che chở con họ khỏi nỗi sợ trong đêm và những cơn ác mộng. Đôi vợ chồng không dám từ chối và đã mua cái răng.”
“Vẫn là người bán hàng đó sao?”
“Phải,” ông lão cưỡi ngựa trả lời khi hiểu ra ý định của cô,. “nhưng ông ta sẽ không nói gì với cô đâu. Một người đàn ông tới tặng cho ông ta những món dụng cụ mới. Cơn gió nói đó là để đổi lấy ký ức của ông ta…”
“Đã lâu chưa ạ?”
“Mới mấy hôm trước thôi. Chính xác là hai!”
“Người đó là ai vậy?”
“Người đi chiếc Toyota ở dưới kia. Chính vì thế mà ta tới. Ta thấy người này theo dõi cô, vì thế ta đã gọi cô để nói cho cô hay những điều người khác sẽ không nói với cô.”
“Cụ đã gọi cháu sao?”
“Tất nhiên, nếu không thì vì lý do gì cô lại vội phi nước đại tới đây?”
Solongo vẫn còn đang nghĩ xem nên trả lời thế nào thì mặt đất vang lên tiếng vó ngựa nặng nề. Ông lão nhổm thẳng người lên trên bàn đạp để ngoái xuống nhìn phía sau triền đồi, và thấy năm người cưỡi ngựa đang hối hả phi đến.
“Đi ra đằng kia,” ông lão khuyên Solongo đồng thời giật cương thúc con ngựa của mình. “Phi thẳng về phía Tây và đừng có quay đầu lại.”
Rồi ông thúc con ngựa của mình lao về phía Bắc, hai khuỷu tay khuỳnh ra trong khi con ngựa phi nước đại và nhanh chóng biến mất phía sau sống núi. Nữ bác sĩ pháp y đã nghe thấy âm thanh rầm rập của lũ ngựa đang lại gần. Cô không biết mấy người kia muốn gì ở mình, song vẫn nhận ra rõ ràng là họ muốn nhắm tới cô. Thế nhưng cô chưa hề thấy sợ. Đám con trai vẫn hay thường chơi trò chơi ngớ ngẩn này với cô khi cô còn nhỏ. Thúc ngựa của họ lao vụt qua sát sạt ngựa của cô, làm con ngựa phát cuồng lên hất cô ngã nhào xuống để cười. Nhưng hôm nay cô đã qua lứa tuổi đó, và mấy người cưỡi ngựa này cũng vậy. Cô không dám chắc liệu bọn họ có còn hài lòng chỉ với việc cười cú ngã của mình.
Những kẻ đuổi theo cô tận dụng đà chạy của lũ ngựa chúng cưỡi nhằm bắt kịp Solongo. Cô nghe thấy bọn họ thúc giục những con ngựa có đôi mắt cuồng dại và miệng đã sùi bọt. Nỗi sợ hãi khiến ngực cô thắt lại, và trái tim của Solongo cũng đập thình thịch theo nhịp vó ngựa. Cô tự hỏi liệu mình có nên dùng mẹo, đột ngột đổi hướng để làm bọn họ bất ngờ không, nhưng đây chắc chắn là những người chăn gia súc đã quá quen với việc đuổi theo đám ngựa hoang. Cô không còn cơ hội nào khác ngoài cố bỏ xa bọn họ. Đám người này đã thúc ngựa phi nước đại trong thời gian lâu hơn cô, và có thể cô sẽ có cơ may là ngựa của họ sẽ mệt trước ngựa của cô.
Đột nhiên, Solongo thấy ông lão quay lại lao thẳng về phía cô, cây gậy urga dài cắp dưới cánh tay như cây thương của một hiệp sĩ. Hẳn là ông đã vòng qua quả đồi. Solongo hiểu ngay bằng bản năng là cô cần băng ngang qua ông mà không kìm ngựa chậm lại. Họ lướt qua sát cạnh nhau một giây trong mùi mồ hôi của những con ngựa họ cưỡi và tiếng vó ngựa khua trên mặt đất. Ngay khi cô vượt qua, Solongo ngoái cổ lại để dõi theo đường đi của ông lão từ phía sau lưng ông. Cô thấy ông thúc gót chân vào ngựa và lao thẳng vào toán nhỏ những kẻ truy đuổi cô. Khi tới gần sát đám này, ông xoay cây gậy urga dài của mình, đưa nó nằm ngang ra trước ngực, rồi lao qua giữa đám kỵ sĩ làm hai người ngã ngựa. Một trong hai tên này ngã ngửa ra sau từ trên ngựa, bị cây gậy gỗ quật đúng vào trán. Tên còn lại ngả người sang một bên tìm cách tránh cây gậy và lăn nhào vào chân một con ngựa khác, làm nó Vấp ngã. Hai kỵ sĩ còn lại ghìm ngựa để dừng chúng lại và tới trợ giúp cho mấy tên bị ngã, chẳng còn để tâm tới Solongo hay ông lão nữa.
Cô ghìm ngựa chậm lại để rẽ một vòng rộng sang trái vẫn không rời mắt khỏi nhóm người cưỡi ngựa vừa bị đánh bại. Cô nhận thấy một tên trong số mấy tên ngã ngựa không thể leo lên yên lại được. Hai tên còn lại, choáng váng, loạng choạng đứng dậy. Cô dừng ngựa ở xa bọn họ và nhìn họ tập hợp lại. Một tên trong nhóm giúp kẻ bị thương leo lên ngồi sau lưng mình, một tên khác dắt con ngựa của hắn ta. Sau đó, nhóm nhỏ này ủ rũ đi nước kiệu về phía Nam, không ai ngoảnh lại.
Rồi cô thấy ông lão nhẹ nhàng thúc ngựa đi nước kiệu quay trở lại nơi xảy ra cú va chạm. Đi qua đi lại hai ba lần, cúi gập người xuống mà không xuống hẳn ngựa, ông nhặt những khúc gãy của cây gậy urgalên. Sau đó, ông thúc ngựa đi về phía Đông không nhìn cô lấy một lần, và cô hiểu họ không cần phải chào hỏi nhau. Cô thúc ngựa đi nước kiệu quay trở lại căn lều của người bán hàng. Lão già dối trá và vợ ông ta đang đợi cô, đứng gần cửa lều, song chiếc ô tô thì không còn đó nữa. Solongo đoán họ đã thấy tất cả, nhưng với lão già này chỉ có tiền là quan trọng.
“Cô thúc nó mạnh quá. Cái đó còn đáng nhiều hơn một vòng phi nước đại!” ông ta gắt gỏng khi cô nhảy từ trên yên xuống để trao lại đây cương cho ông ta.
“Ông nói đúng, ông lão ạ. Đáng để tôi tố cáo ông ngay khi về đến nơi. Ông chọn gì nào: khai quật bất hợp pháp? Buôn lậu vật phẩm văn hóa? Lừa đảo?”
“Sao cô dám thiếu tôn trọng với một người du mục lớn tuổi như tôi, cô để truyền thống vào đâu rồi hả?” ông ta nổi xung lên để ra vẻ.
“Thật là kiểu tôn trọng xứng đáng với một người dựng xưởng chế tác trong lều của mình để lừa đảo khách ở chính nơi mà truyền thống đòi hỏi ông ta đón tiếp họ!”
“Cô thì biết gì về truyền thống hả? Đồ gái thành phố, đồ con gái chó sói! Mấy người cưỡi ngựa kia có lý: cô đáng bị họ xéo nát ra.”
“À, cứ nói vói họ tôi đã biết bọn họ là ai, và ngày mai tôi sẽ đưa cảnh sát tới tóm cổ họ.”
“Cảnh sát à, tôi biết bọn họ lắm,” ông già đáp đầy ngạo nghễ,. “chính nhà cô mới là người bọn họ tóm cổ nếu nhà cô không cuốn xéo khỏi đây.”
“Cảnh sát là tôi đây, ông lão ạ,” Solongo bực bội rút thẻ ra,. “và nếu ông không nói cho tôi biết người đàn ông lái chiếc xe đó là ai, thì tôi sẽ bắt ông ngay lập tức!”
“Tôi không biết ông ta!”
“Ông ta đã cho ông những món dụng cụ mới, mà ông lại không biết ông ta?”
“Tôi không biết tên ông ta,” ông già bắt đầu luống cuống đáp lại.
“Nói cho tôi biết gì đó hoặc tôi sẽ tống ông vào khám!”
“Người ta gọi anh ta là Sói, và anh ta làm việc với cảnh sát. Tôi chỉ biết có thế. Cũng chính vì thế mà tôi làm theo lời anh ta.”
Solongo để hai người chủ lều lại đó, leo lên chiếc xe jeep của mình và lập tức nổ máy để quay lại con đường đi Dalanzadgad. Trong kính chiếu hậu, cô thấy người phụ nữ chạy về lều của mình. Bà ta từ đó chui ra, cầm theo một bát sữa để tạ ơn bốn phương và cầu bình an cho chuyến đi của cô. Người đàn ông tức tối hất nhào bát sữa đầy hung hãn rồi vung tay lên để đánh người phụ nữ. Solongo đạp mạnh phanh và bấm còi làm người đàn ông khựng lại giữa chừng, cho phép người phụ nữ có thời gian tránh xa. Rồi có nổ máy lại và chiếc xe jeep chồm chồm lao qua đường mòn trong một đám bụi vàng.
Ngay khi trở ra tới đường mòn, Solongo tìm cách gọi Yeruldelgger. Điều kỳ diệu ở đất nước này là điện thoại di động lại có sóng ở những nơi ít ngờ tới nhất.
“Em đây!”
“Tình hình thế nào? Mọi việc ổn cả chứ?”
“Gần như vậy.”
“Gần như là thế nào?”
“Có vài rắc rối, nhưng không có gì nghiêm trọng. Được rồi, nghe này, anh có gì để ghi chép không?”
“Đợi anh một giây, anh đang lái xe… Được rồi, anh có rồi!”
“Thế này nhé, năm năm trước có một cặp vợ chồng đi dã ngoại với đứa con gái nhỏ. Chính là cô bé đó: một nhân chứng còn nhớ chiếc xe đạp ba bánh màu hồng. Người nước ngoài, không phải châu Á. Không phải người Nga, người Anh hay người Đức. Người chồng là một người đàn ông đeo kính, có vợ là một phụ nữ đẹp. Họ ở lại bốn ngày. Họ quan tâm tới đám khủng long. Còn cả một chiếc xe Nga kiểu UAZ 452 nữa. Loại có lắp kính, màu xanh lam, biển số Oulan-Bator có hai số 9. Em đoán là du khách phương Tây, nhưng thường thì luật bắt buộc họ phải dùng lái xe. Mà hình như gia đình này lại không có.”
“Chỉ có thế thôi à?”
“Cũng không đến nỗi nào rồi đúng không?”
“Thế còn rắc rối?”
“Có người bám theo em, và một toán cưỡi ngựa đã định dọa em một mẻ. Người ta cũng đã mua sự im lặng của ông già đã bán cái răng giả.”
“Được rồi. Em vẫn quay về tối nay chứ?”
“Vâng, chuyến bay lúc mười bảy giờ.”
“Anh đợi em ở sân bay. Hẹn gặp tối nay nhé.”
“Hẹn gặp tối nay!”
Cô đang định ngắt liên lạc thì chiếc Toyota vụt xuất hiện đằng sau và đâm vào chiếc jeep của cô. Cú va chạm rất dữ dội. Cô buông chiếc điện thoại di động ra để nắm chặt lấy vô lăng rồi đánh lái để giữ cho xe ở trên đường. Yeruldelgger nghe thấy cú va chạm và tiếng chửi của cô bạn.
“Solongo?”
Chiếc điện thoại đập vào bảng điều khiển và nẩy lên rơi xuống ghế dành cho hành khách. Loa ngoài chưa được kích hoạt, song khi liếc mắt nhanh tìm kiếm chiếc điện thoại, Solongo nhận thấy nó vẫn đang kết nối. Có thể Yeruldelgger vẫn còn nghe máy.
“Anh nghe thấy em chứ? Anh nghe thấy em chứ?” cô hét to trong khi theo dõi qua gương chiếu hậu chiếc Toyota đang lại lao tới gần mình. “Nếu anh nghe thấy em, thì đó là một chiếc Toyota màu lục sẫm. Land Cruiser ba cửa. Loại khung gầm ngắn thì phải. Chỉ có một gã.”
Yeruldelgger nghe thấy một cú va chạm mới và một tràng chửi rủa.
“Solongo! Solongo, trả lời anh đi nào!”
“Gã chó đẻ!” cô hét to. “Hắn tìm cách đẩy em về phía vách núi… Biển số xe, ghi lại biển số xe của hắn… 4826, Oulan-Bator. Không, không, 2648. 2648 Oulan-Bator… Kính đen… Kính chắn gió chống chói… Em hy vọng là anh đang ghi lại!”
Vị cảnh sát trưởng tạt bừa xe vào lề Đại lộ Hòa Bình rồi ghi từng từ của Solongo vào sổ tay bỏ túi của ông.
“Hắn sắp bắt kịp em, Yeruldelgger, hắn sắp bắt kịp em! Hắn chạy ngang xe em về bên trái, hắn đang ở sát em! Ôi không, trời ơi, hắn có súng! Hắn sẽ bắn em mất!”
Yeruldelgger buông rơi cuốn sổ bỏ túi xuống. Ông nắm chặt lấy chiếc điện thoại di động và lấy hết gân sức hét to:
“Phanh lại, Solongo, phanh lại! Phanh lại, để hắn vượt lên rồi tông hắn chống vó lên từ phía sau. Đâm vào góc xe hắn từ đằng sau! Solongo! Solongo?”
Khi nhìn thấy gã lái xe chĩa súng về phía mình, nữ bác sĩ pháp y dè nghiến chân phanh và giữ chặt vô lăng để giữ cho chiếc jeep nằm thẳng theo trục đường. Phản ứng của cô khiến hắn bị bất ngờ và phanh chậm mất một giây trong khi không thể làm chủ được hướng đi chiếc xe do khẩu súng đang cầm trên tay. Chiếc Toyota cà xước hết sườn trái chiếc jeep và làm gãy tan gương chiếu hậu. Ngay khi nó vượt lên trên, Solongo về số để lấy lại đà rồi tạt sang trái, rời khỏi con đường mòn, phía đối diện với vách núi. Mặt đất dâng lên khá dốc về phía một dải đất dài gấp nếp rải rác mấy tảng đá to. Chiếc jeep gầm lên, trượt đi trên cỏ trước khi lấy lại được độ bám và chồm chồm lao tới trên đám đá cuội và qua những lỗ chuột chũi. Qua gương chiếu hậu bên trong xe, cô theo dõi chiếc Toyota. Gã nọ buộc phải xoay xở để thoát ra khỏi một vệt bánh xe hằn sâu rồi quay đầu để tiếp tục cuộc truy đuổi. Hắn chỉ ở đằng sau cô chưa đầy mười mét, và Solongo tính toán cơ hội của mình. Sáu hoặc bảy mét hẳn là đủ để tạo bất ngờ. Khi ước tính kẻ tấn công mình đã ở khoảng cách vừa đủ, cô lái chiếc jeep chạy thẳng lên cao về phía một tảng đá to. Ngay khi tới chỗ tảng đá, cô vòng xe sang trái và giả vờ sẽ núp sau tảng đá để biến nó thành chướng ngại vật giữa cô và kẻ truy đuổi. Khi chiếc Toyota rẽ ngang trên triền dốc để vòng qua tảng đá, Solongo bất thình lình giậm phanh, cái số lùi, và lao chiếc jeep chạy lùi tông vào hắn. Cô nhắm vào bánh trước bên phải và dồn hết sức mạnh động cơ xe mình vào cú đâm. Chiếc Toyota đang ở trạng thái chênh vênh và nằm xoay ngang trên dốc. Cú va chạm làm nó mất thăng bằng và cả sườn phải xe bị hất bổng lên, rồi chiếc xe từ từ lật qua sườn bên kia và lăn thêm chừng chục vòng mỗi lúc một nhanh cho tới tận con đường mòn. Nó bật nẩy lên trong một vết rãnh bánh xe, lật tiếp sang bên đối diện, rồi biến mất trong một khe núi…
Solongo lấy làm ngạc nhiên khi cô không cảm thấy chút hoảng hốt nào. Cô quan sát cú rơi của chiếc xe mà không hề thương hại gã lái xe. Sau đó, cô chuyển số chiếc xe địa hình và thận trọng vòng lại chạy xuống phía con đường mòn, luôn giữ cho chiếc jeep bám lấy triền dốc. Ngay trước khi tới nơi, cô nhìn thấy khẩu súng của gã lái xe, hẳn là bị hất văng ra qua một kính vỡ. Cô lùi xe, dừng lại nhoài người qua cửa nhặt lấy nó mà không xuống xe, rồi lên đường về hướng Dalanzadgad.
Chạy được vài trăm mét, cô cảm thấy khó nhả côn và nhận ra chiếc điện thoại đã tuột xuống dưới chân cô và làm kẹt bàn đạp. Cô cúi xuống nhặt nó lên.
“Yeruldelgger? Anh vẫn còn đó chứ?”
“Đáng lẽ phải hỏi em câu này mới phải,” ông trả lời.
“Em thấy khó mà tin nổi, nhưng vâng, em vẫn đang đây.”
“Gã kia?”
“Dưới một khe núi sau khi lộn nhào mười vòng.”
“Khá lắm!”
“Em không rõ hắn có thoát ra được không…”
“Mặc xác hắn! Nghe này, khi quay về thành phố, hãy chạy quá sân bay. Sau đoạn đường vòng bên phải, quá khoảng hai trăm mét, ngay trước chỗ ngôi nhà lớn có mái xanh lam, hãy rẽ vào con phố bên phải. Để xe lại trong sân ngôi nhà thứ tư, có mái màu xanh lục. Cửa nhà sẽ mở. Đi bộ ra sân bay. Chỉ cách đó chưa đầy ba trăm mét thôi. Hiểu không?”
“Hiểu, thưa sếp,” Solongo đùa bỡn, lúc này cô bắt đầu thấy thoải mái. “Có kiểm tra an ninh trước khi lên máy bay không nhỉ?”
“Không, với các chuyến bay nội địa thì không. Sao thế?”
“Em đã nhặt khẩu súng của gã lái chiếc Toyota,” cô thì thầm như thể người ta có thể nghe trộm trong chiếc jeep giữa sa mạc Gobi
“Khá lắm!” Yeruldelgger thốt lên. “Chắc cuối cùng anh sẽ yêu em mất, em biết không?”
“Rồi sẽ đến lúc thôi !” Solongo giễu anh.