Dữ Liệu Tử Thần

CHƯƠNG 32



Lincoln ăn bữa thứ hai trong ngày của mình.

Thom đã chuẩn bị đồ ăn lần nữa, mặc dù Rhyme thường không đặc biệt hứng thú với việc ăn uống, anh vẫn ăn ngon lành chiếc sandwich kẹp thịt gà và bánh mì do anh chàng điều dưỡng tự làm. ‘Theo đúng công thức của James Beard,” anh ta tuyên bố mặc dù lời đề cập tới tên người đẩu bếp nổi tiếng và cũng là một tác giả các cuốn sách dạy nấu ăn, đối với Rhyme, chẳng tạo ra được bất cứ ấn tượng nào. Sellitto đã chén ngấu nghiến một chiếc sandwich, cầm theo một chiếc nữa trước khi ra về (“Còn ngon hơn món cá ngừ,” anh ta tấm tắc). Mel Cooper thậm chí còn hỏi xin công thức làm món bánh mì đen cho cô vợ Gretta.

Sachs đang ngồi trước máy tính gửi vài email. Rhyme định hỏi cô đang làm gì thì chuông cửa reo vang.

Một lát sau, Thom dẫn vào phòng thí nghiệm Terry Dobyns, chuyên gia về hành vi của Sở Cảnh sát New York mà Rhyme đã quen biết nhiều năm nay. Mái tóc anh ta đã thưa hơn, bụng cũng đã to ra so với lần đầu họ gặp gỡ – khi Dobyns từng ngồi cạnh Rhyme hàng giờ liền, trong quãng thời gian khủng khiếp sau vụ tai nạn đã khiến anh bị liệt. Đôi mắt người bác sĩ vẫn đầy nhân ái như trong trí nhớ Rhyme và nụ cười bình thản, không một chút định kiến. Nhà tội phạm học vẫn giữ thái độ ngờ vực với việc thiết lập chân dung tâm lý tội phạm, ưa thích sự chính xác của khoa học hình sự hơn, nhưng anh cũng phải thừa nhận Dobyns đã không ít lần cung cấp các chỉ dẫn sáng suốt và hữu ích về những tên tội phạm Rhyme săn lùng.

Lúc này người bác sĩ đang lên tiếng chào mọi người, nhận tách cà phê từ tay Thom, đồng thời từ chối mọi đồ ăn. Anh ta ngồi xuống một chiếc ghế ngay cạnh chiếc xe lăn của Rhyme.

“Quả là đúng đắn khi các anh đã gọi cho tôi hỏi về chứng nghiện tích trữ. Tôi nghĩ anh có lý. Trước hết, tôi muốn nói luôn là tôi đã liên hệ với tổ chức chuyên trách, họ cũng đã rà soát lại những đốỉ tượng đã xác định mắc phải hội chứng này trong thành phố. Số lượng cũng không nhiều và rắc rối là ở chỗ kẻ anh đang tìm không nằm trong danh sách này. Tôi loại trừ các đối tượng là phụ nữ, vì anh đã nói với tôi về vụ cưỡng dâm. Về các đối tượng nam giới, phần lớn đã cao tuổi hay không còn khả năng sinh lý. Hai đối tượng phù hợp với đặc điểm của kẻ anh đang săn lùng đang có mặt ở Staten Island và khu Bronx, cả hai đều có xác minh của nhân viên công tác xã hội hay thành viên gia đình vào thời điểm xảy ra vụ án mạng ngày Chủ nhật.”

Rhyme không ngạc nhiên – Năm Hai Hai quá khôn ngoan để có thể sao nhãng việc xóa dấu vết. Nhưng anh vẫn hy vọng ít nhất có được một manh mối dù mong manh và cau có bực bội khi gặp phải ngõ cụt.

Dobyns khẽ mỉm cười. Đây là một vấn đề họ đã từng gặp phải nhiều năm trước. Rhyme chưa bao giờ cảm thấy thoải mái khi thể hiện sự bực bội hay thất vọng trong các vấn đề cá nhân. Tuy nhiên, với công việc thì anh lại là một bậc thầy về chuyện này.

“Nhưng tôi có thể cung cấp cho anh vài gợi ý nhiều khả năng sẽ hữu ích. Giờ thì hãy để tôi nói qua một chút về những kẻ bị chứng nghiện tích trữ. Đó là một chứng rối loạn ám ảnh mang tính cưỡng ép. Nó xảy ra khi một người phải đối diện với một xung đột hay tình huống căng thẳng mà anh ta không thể đối phó được về mặt cảm xúc. Tập trung vào làm một việc gì đó dễ dàng hơn nhiều so với việc nhìn thẳng vào vấn đề ẩn chứa bên trong. Rửa tay và đếm là những triệu chứng của rối loạn ám ảnh mang tính cưỡng ép. Nghiện tích trữ cũng tương tự.”

‘Cũng cần nói luôn, về mặt bản chất, hiếm khi ai đó mắc chứng nghiện tích trữ lại trở nên nguy hiểm. Có những nguy cơ về sức khỏe – nhiễm bệnh từ súc vật hay côn trùng, nấm mốc, nguy cơ cháy nổ – nhưng về cơ bản, những người nghiện tích trữ chỉ đơn giản muốn người khác để họ yên. Họ sẵn sàng sống khép mình giữa bộ sưu tập của họ, không bao giờ ra ngoài, nếu có thể.”

“Nhưng ông bạn này của anh, nói thật lòng, quả là một kẻ lạ lùng. Một sự kết hợp giữa chứng tự yêu bản thân, tính cách yếm thế và rối loạn ám ảnh mang tính cưỡng ép dưới dạng nghiện tích trữ. Nếu hắn ta muốn thứ gì đó – có thể là những đồng tiền xu cổ, tranh hay sự thỏa mãn về tình dục – hắn buộc phải có nó. Hoàn toàn bắt buộc. Giết người sẽ không là gì nếu nó giúp hắn có được thứ hắn cần và bảo vệ bộ sưu tập của hắn. Trên thực tế, tôi sẵn sàng đi xa đến mức cho rằng việc giết chóc giúp hắn bình tĩnh hơn. Những người đang sống mới khiến hắn căng thẳng. Họ sẽ làm hắn thất vọng, sẽ rời bỏ hắn. Nhưng những đồ vật chết như tờ báo, hộp xì gà, nến, thậm chí cả những xác chết – anh có thể mang theo về nơi trú ngụ của anh; chúng không bao giờ phản bội anh… Tôi không cho rằng anh quan tâm đến những yếu tố liên quan tới thời thơ ấu có thể đã khiến hắn trở thành như vậy?”

“Không hẳn, Terry,” Sachs nói. Cô mỉm cười nhìn Rhyme, lúc này đang lắc đầu.

“Thứ nhất, hắn sẽ cần có không gian. Rất nhiều. Và với giá nhà đất ở đây, hắn phải rất tháo vát hoặc rất giàu có. Những người nghiện tích trữ thường có xu hướng sống trong những ngôi nhà cổ hay nhà đô thị có diện tích lớn. Họ không bao giờ thuê nhà. Họ không thể chịu đựng được ý nghĩ về một người chủ nhà có quyền xâm nhập vào không gian sống của họ. Các ô cửa sổ sẽ bị sơn đen hay dán băng dính. Hắn ta cần phải giữ khoảng cách với thế giới bên ngoài.”

“Cần đến bao nhiêu diện tích?” Cô hỏi.

“Rất, rất nhiều phòng.”

“Một số nhân viên của SSD chắc chắn có rất nhiều tiền,” Rhyme suy luận. “Các nhân sự cao cấp.”

“Vì gã thủ phạm của anh có chức vụ cao như vậy, hắn sẽ phải có hai cuộc sống. Chúng ta sẽ gọi chúng là cuộc sống ‘bí mật’ và ‘bề ngoài’. Hắn cần tồn tại trong thế giới thực – để bổ sung và duy trì bộ sưu tập của hắn. Vì thế hắn phải thể hiện ra bên ngoài một cách bình thường. Rất có thể hắn có một ngôi nhà thứ hai hoặc một phần của ngôi nhà duy nhất được trang trí cho có vẻ bình thường. À, hắn sẽ thích sống trong hang ổ bí mật của mình hơn. Nhưng nếu hắn làm thế, chỉ có mặt ở đó, những người khác sẽ bắt đầu để ý. Vậy là hắn cũng có một không gian sống có vẻ tương tự như của bất cứ ai ở điều kiện xã hội và kinh tế của hắn. Hai nơi sống có thể được nối liền với nhau hoặc gần kề. Tầng trệt có thể hoàn toàn bình thường, trong khi các tầng lầu là nơi hắn lưu giữ bộ sưu tập của mình. Hoặc dưới tầng hầm.”

“Về tính cách, hắn sẽ thể hiện trong cuộc sống bề ngoài một vai diễn gần như trái ngược hẳn với con người thực của hắn. Chẳng hạn, tính cách thật sự của Năm Hai Hai tàn nhẫn và nhỏ nhen. Con người Năm Hai Hai trước mặt công chúng sẽ mực thước, bình tĩnh, chín chắn, lịch thiệp.”

“Hắn có thế xuất hiện như một doanh nhân?”

“Ồ, hết sức dễ dàng. Hắn sẽ vào vai rất tuyệt. Bởi vì hắn buộc phải làm thế. Điều đó khiến hắn giận dữ, thù hận. Nhưng hắn biết nếu không làm vậy, bộ sưu tập có thể gặp nguy hiểm và đó là điều hắn không thể chấp nhận được.”

Dobyns nhìn qua các bản danh sách. Anh ta gật đầu, “Giờ thì tôi thấy anh đang băn khoăn về chuyện con cái của hắn đúng không? Tôi thực sự khó tin được hắn lại có con. Rất có thể hắn chỉ sưu tập đồ chơi thôi. Lại là điều gì đó liên quan tới tuổi thơ của hắn. Hắn sẽ sống độc thân. Hiếm khi có kẻ nghiện tích trữ nào lập gia đình. Nỗi ám ảnh sưu tập của hắn ta rất dữ dội. Hắn không muốn chia sẻ thời gian hay không gian của mình với một người khác và nói thẳng ra cũng khó lòng tìm được một người bạn đời cũng lập dị như vậy để sẵn sàng sống chung với hắn.”

“Okay, thế còn thuốc lá và diêm? Hắn tích trữ thuốc lá điếu và diêm dạng vỉ, nhưng tôi không nghĩ hắn hút thuốc. Phần lớn những kẻ nghiện tích trữ đều sưu tập một lượng lớn giấy tờ, tạp chí, các đồ vật dễ cháy. Gã thủ phạm này không phải là kẻ ngốc. Hắn sẽ không bao giờ mạo hiểm với nguy cơ hỏa hoạn bởi vì chuyện này có thể hủy hoại bộ sưu tập của hắn. Hay ít nhất khiến hắn bị bại lộ, khi lực lượng cứu hỏa xuất hiện. Nhiều khả năng hắn cũng không có sở thích đặc biệt nào với tiền xu hay tác phẩm nghệ thuật. Hắn bị ám ảnh với việc sưu tập. Còn việc sưu tập thứ gì chỉ có ý nghĩa thứ yếu.”

“Vậy nhiều khả năng là hắn không sống gần một cửa hàng đổ cổ?”

Dobyns bật cười, “Nơi ở của hắn chính xác trông sẽ y như thế. Nhưng, tất nhiên là không có khách hàng… Được rồi, tôi cũng không thể nghĩ ra gì thêm. Ngoại trừ việc cho anh biết hắn có thể nguy hiểm tới mức nào. Từ những gì anh đã nói với tôi, anh đã vài lần chặn đường hắn. Điều đó khiến hắn rất bực. Hắn giết bất cứ ai ngăn cản việc sưu tập của hắn, giết họ mà không cần suy nghĩ nhiều. Tôi đặc biệt muốn nhấn mạnh với anh về chi tiết này.”

Họ cùng cảm ơn Dobyns. Anh ta chúc họ may mắn rồi ra về. Sachs cập nhật lại danh mục dữ liệu về ĐTBA, dựa trên những gì người chuyên gia tâm lý vừa cung cấp.

     

MÔ TẢ ĐẶC ĐIỂM ĐTBA 522
• Nam giới.
• Nhiều khả năng không hút thuốc.
• Nhiều khả năng không có vợ con.
• Nhiều khả năng là người da trắng hoặc có màn da sáng.
• Vóc người trung bình.
• Khỏe – có khả năng siết cổnạn nhân.
• Có cơ hội tiếp cận thiết bị ngụy trang giọng nói.
• Nhiều khả năng biết rõ về mảy tính, mạng xã hội OurWorld. Còn các trang mạng xã hội khác?
• Lấy chiến lợi phẩm từ nạn nhân. Một kẻ tàn bạo biến thái?
• Một phần nơi ở/nơi làm việc thường xuyên trong tình trạng thiếu ánh sáng, ẩm thấp.
• Ăn đồ ăn vặt/xốt cay.
• Đi giày đi làm hiệu Skecher cỡ 11.
• Bị nghiện tích trữ. Mắc hội chứng rối loạn ảm ảnh mang tính cưỡng ép.
• Có một cuộc sống ‘bí mật’ và một cuộc sống “bề ngoài.”
• Biểu hiện trước công chúng sẽ đôi lập với bản chất thực sự.
• Nơi ở: không thuê nhà, có hai khu vực cư trú, một bình thường và một bí mật.
• Các cửa sổ nhà bị che hoặc sơn đen.
• Sẽ trở nên rất bạo lực khi thực hiện hành vi sưu tập hay khi bộ sưu tập bị đe dọa.

     

“Hữu ích chứ?” Cooper hỏi.

Rhyme chỉ có thể nhún vai.

“Em nghĩ sao, Sachs? Liệu hắn ta có thể là ai đó trong số những người em đã nói chuyện ở SSD không?”

Cô nhún vai, “Em có thể nói Gillespie phù hợp nhất. Anh ta dường như có vẻ rất kỳ quặc. Nhưng Cassel là tay khôn khéo nhất nếu nói về khả năng chưng ra một bộ mặt dễ ưa. Arlonzo – Kemper đã kết hôn, chi tiết này loại anh ta khỏi danh sách, theo quan điểm của Terry. Em chưa gặp các kỹ thuật viên. Ron thì có.”

Cùng với những rung động từ thiết bị điện tử, một hộp thoại hiển thị danh tính người gọi đến xuất hiện trên màn hình. Đó là Lon Sellitto, đã quay về nhà nhưng có vẻ vẫn đang tiếp tục bận rộn với ‘Kế hoạch Chuyên gia’ mà Rhyme và anh ta đã cùng nhau vạch ra trước đó.

“Nhận lệnh, trả lời điện thoại… Lon, kế hoạch chúng ta sao rồi?”

“Tất cả đều được thu xếp rồi, Linc.”

“Bao giờ?”

“Xem bản tin mười một giờ, anh sẽ thấy. Tôi đi ngủ đây.” Rhyme ngừng liên lạc và bật chiếc TV ở góc phòng thí nghiệm lên.

Mel Cooper cũng chào tạm biệt. Anh ta đang sắp xếp đồ nghề vào cặp thì chiếc máy tính trước mặt phát ra một tiếng ‘đinh’. Anh ta nhìn lên màn hình. “Amelia, cô có email này.”

Cô đến chỗ chiếc máy tính, ngồi xuống.

“Có phải cảnh sát Colorado liên hệ về Gordon không?” Rhymo hỏi.

Sachs không nói gì nhưng anh thấy một bên mày của cô hơi nhướng lên khi đọc bản email dài. Ngón tay của cô lại biến mất vào mái tóc đỏ cột đuôi ngựa và da đầu lại có lý do để e ngại.

“Chuyện gì vậy?”

“Em phải đi,” cô nói và hối hả đứng dậy.

“Sachs, có chuyện gì thế?”

“Không liên quan gì đến vụ án. Gọi cho em nếu anh cần.”

Nói tới đó, cô đã lao ra ngoài khung cửa, để lại đằng sau một màn bí ẩn mơ hồ như hương thơm hoa oải hương của loại xà phòng cô hay dùng.

– – * – –

Vụ án Năm Hai Hai đang diễn biến rất nhanh.

Thế nhưng cảnh sát cũng có lúc phải bận tâm tới những khía cạnh khác trong cuộc sống của họ.

Đó là lý do vì sao lúc này cô đang bồn chồn đứng trước một dãy nhà tách biệt ngăn nắp ở khu Brooklyn, không xa nơi ở của cô lắm. Không khí buổi đêm thật dễ chịu. Một làn gió nhẹ, đượm mùi hoa từ đinh hương và mùn đất đang thổi. Sẽ thật tốt biết bao nếu được ngồi xuống lề đường hay một bậc cửa nào đó gần đây và không phải làm điều cô sắp làm.

Chúa ơi! mình ghét chuyện này.

Pam Wiloughby xuất hiện trên ngưỡng cửa. Cô bé mặc một chiếc áo len dài tay, tóc buộc túm đuôi ngựa. Cô bé đang nói chuyện cùng người con nuôi khác của gia đình, cũng là một đứa trẻ vị thành niên. Khuôn mặt hai đứa hiện vẻ bí mật pha lẫn ngây thơ thường thấy ở những cô bé vị thành niên. Hai con chó đang đùa nghịch với nhau dưới chân chúng: Jackson – con chó giống Havanese tí hon và một chú chó giống Briard lớn hơn nhưng cũng không kém phần tinh nghịch – Cosmic Cowboy.

Người nữ cảnh sát thỉnh thoảng lại tới đây gặp cô bé, sau đó hai người cùng đi xem phim, tới quán Starbuck hay đi ăn kem. Khuôn mặt Pam thường sáng lên mỗi khi nhìn thấy Sachs.

Nhưng không phải như tối nay.

Sachs ra khỏi xe, tựa người vào mui xe vẫn còn nóng bỏng. Pam bế Jackson lên và đến bên cạnh cô. “Chị xin lỗi vì qua muộn thế này.”

“Không sao,” cô bé tỏ vẻ dè dặt.

“Bài tập về nhà thế nào?”

“Lúc nào chẳng thế. Một số tốt, một số thật tệ.”

Sachs vỗ về con chó mà Pam đang ôm chặt khư khư. Cô bé thường xuyên làm vậy với những thứ của mình. Cô bé luôn từ chối khi ai đó đề nghị cầm giúp túi đựng sách hay túi đựng đồ. Sachs đoán có lẽ vì đã từng bị tước đoạt mất quá nhiều, giờ đây cô bé muốn giữ chặt lấy bất cứ thứ gì có thể.

“Vậy có chuyện gì thế?”

Cô không nghĩ ra được cách nào để vào đề một cách nhẹ nhàng. “Chị đã nói chuyện với bạn em.”

“Bạn nào?” Pam hỏi.

“Stuart.”

“Chị đã làm gì?” Những vệt ánh sáng chiếu qua tán lá của một cây bạch quả rọi lên khuôn mặt bối rối của cô bé.

“Chị cần phải làm thế.”

“Không, chị không được phép.”

“Pam… chị lo cho em. Chị đã nhờ một người bạn ở Sở – một người chuyên thực hiện các thủ tục kiểm tra an ninh – điều tra về anh ta.”

“Không!”

“Chị muốn biết liệu anh ta có gì giấu giếm không.”

“Chị không có quyền làm thế!”

“Phải. Nhưng dù sao chị cũng đã làm. Và chị mới nhận được một email trả lời.” Sachs cảm thấy dạ dày như thắt lại. Đối mặt với những tên sát nhân, phóng xe với tốc độ một trăm bảy mươi dặm một giờ… chẳng là gì cả so với lúc này khi cô đang hoang mang cực độ.

“Vậy có phải anh ấy là một tên sát nhân khốn kiếp hay không?” Pam hét lên, “Một kẻ giết người hàng loạt? Một tên khủng bố?”

Sachs do dự. Cô muốn nắm lấy cánh tay cô bé. Nhưng rồi không làm thế. “Không, em yêu. Nhưng… anh ta đã có gia đình.”

Dưới những vệt sáng của đèn đường, Sachs thấy Pam chớp mắt.

“Anh ấy… đã có gia đình?”

“Chị rất tiếc. Vợ anh ta cũng là giáo viên, dạy tại một trường tư ở khu Long Island. Và anh ta đã có hai con.”

“Không! Chị nhầm rồi.” Sachs thấy bàn tay còn tự do của Pam đang nắm chặt đến mức tưởng chừng các sợi cơ sắp đứt tung.

Đôi mắt cô bé đầy phẫn nộ, nhưng cũng không có gì ngạc nhiên. Sachs tự hỏi liệu Pam có đang nhớ lại một vài hồi ức hay không. Có thể Stuart từng nói anh ta không có điện thoại nhà riêng, chỉ có điện thoại di động. Hay cũng có thể anh ta đã yêu cầu cô bé sử dụng một tài khoản thư điện tử riêng biệt, không phải cái anh ta hay dùng.

Nhà anh đúng là một đống hỗn độn. Anh sẽ rất áy náy khi để em nhìn thấy nó. Anh là giáo viên, em biết đây. Các giáo viên đều đãng trí… Anh phải thuê một người dọn nhà…

Pam buột miệng: “Đây là một hiểu lầm. Chị đã nhầm anh ấy với ai đó.”

“Chị vừa đến gặp anh ta xong. Chị đã hỏi và anh ta đã kể tất cả với chị.”

“Không, chị không hề làm thế. Chị đang bịa ra mọi thứ!” Đôi mắt cô bé như tóe lửa, trên khuôn mặt thoáng hiện một nụ cười lạnh lẽo, khiến trái tim Sachs đau nhói. “Chị đang làm đúng như những gì mẹ em từng làm! Khi bà ta không muốn em làm việc gì đó, bà ta bèn nói dối em! Đúng như chị đang làm.”

“Pam, chị không bao giờ…”

“Ai cũng tìm cách tước đi mọi thứ của em! Chị sẽ không làm được đâu! Em yêu anh ấy và anh ấy cũng yêu em, chị không thể đẩy anh ấy đi!” Cô bé quay người lại chạy vào trong nhà, ôm chặt con chó dưới cánh tay.

“Pam,” giọng Sachs nấc lên, “Không, em yêu quý….”

Trước khi bước vào trong nhà, cô bé quay lại liếc nhìn thật nhanh, mái tóc xõa tưng, người cứng lại như làm bằng sắt, khiến Amelia Sachs thầm cảm ơn quầng sáng hắt ngược đã khiến cô không thấy được khuôn mặt Pam; cô không có tâm trạng chứng kiến tận mắt vẻ căm thù mà cô biết đang hiện lên trên khuôn mặt đó.

– – * – –

Trò lố bịch diễn ra ở nghĩa trang vẫn còn hiện rõ mồn một.

Miguel 5465 đáng ra nên chết đi. Tên hắn ta nên được ghim lên một tấm bảng nhung cho đám cảnh sát xăm xoi. Bọn chúng sẽ nói vụ án được khép lại và mọi thứ đáng ra đã ổn cả.

Nhưng hắn ta đã không chết. Con bướm đó đã bay mất. Tôi sẽ không thể tìm cách ngụy tạo vụ tự sát thêm lần nữa. Bọn chúng đã tìm hiểu được điều gì đó về tôi. Bọn chúng đã sưu tập được thêm thông tin…

Tôi ghét bọn chúng, ghét bọn chúng, ghét bọn chúng, ghét bọn chúng…

Chỉ thiếu chút nữa tôi đã cầm lấy con dao cạo, đùng đùng lao ra ngoài và…

Bình tĩnh. Bình tĩnh lại. Nhưng giờ đây việc giữ được bình tĩnh mỗi lúc một khó thực hiện hơn.

Tôi tạm hoãn vài chuyên đi săn đã lên kế hoạch cho tối nay. Tôi vốn dự định sẽ ăn mừng vụ tự sát và giờ tôi đang quay về căn phòng của mình. Được ở giữa những báu vật của mình sẽ giúp ích cho tôi. Những hiện vật từ các cuộc đi săn trong suốt năm vừa qua. Cảm giác những mảnh da thịt, những mẩu móng tay, những sợi tóc đã khô áp vào má tôi thật dễ chịu biết chừng nào.

Nhưng tôi đã kiệt sức. Tôi ngồi xuồng trước bức tranh của Harvey Prescott, ngước mắt nhìn nó. Cả gia đình trong bức tranh nhìn lại tôi. Và đúng như những bức chân dung, đôi mắt của họ đi theo tôi tới bất cứ nơi đâu.

Thật dễ chịu. Và kỳ lạ.

Có thể một trong những lý do khiến tôi yêu thích bức tranh của ông ta đến thế nằm ở chỗ những nhân vật này được tạo nên một cách rất tươi mới. Không có ký ức nào ám ảnh khiến họ bực bội, khiến họ thức trắng đêm, thôi thúc họ phải lao ra ngoài phố sưu tập những báu vật và chiến lợi phẩm.

A, những ký ức:

Tháng Sáu, năm tuổi. Bố ấn tôi ngồi xuống, quẳng điếu thuốc lá chưa châm lửa đi và giải thích cho tôi biết tôi không thuộc về họ. “Chúng ta nhận mày vào gia đình vì chúng ta rất muốn mày. Chúng ta yêu mày cho dù mày không phải là con đẻ của chúng ta, mày hiểu không?…” Không hẳn thế tôi không hiểu. Tôi ngây người nhìn chằm chằm vào ông. Kleenex liếc mắt về phía Mẹ. Bà buột miệng nói bà yêu tôi như con trai ruột. Không, yêu tôi nhiều hơn cả con ruột, dù tôi không hiểu tại sao bà phải nói thế. Nghe như một lời nói dối.

Bố rời khỏi nhà, tới chỗ làm thứ hai của ông. Mẹ chuẩn bị đi trông giữ những đứa trẻ khác, bỏ mặc tôi với nỗi băn khoăn. Tôi có cảm giác bị lấy mất thứ gì đó. Nhưng không rõ là thứ gì. Tôi nhìn qua khung cửa sổ. Ở đây thật đẹp. Những rặng núi, những vạt rừng xanh ngắt và bầu không khí mát mẻ. Nhưng tôi thích căn phòng của mình hơn, đó là nơi tôi trở về.

Tháng Tám, bảy tuổi. Bố và Mẹ đã đánh nhau. Đứa lớn nhất trong số chúng tôi, Lydia, đang khóc. Đừng bỏ đi, đừng bỏ đi, đừng bỏ đi… Bản thân tôi đang lên kế hoạch cho trường hợp tệ nhất, tích sẵn mọi thứ. Thức ăn và những đồng xu. Người ta không bao giờ nhớ ra những đồng xu bị mất, còn tôi, không gì có thể ngăn cản tôi sưu tập chúng. Tôi có một đồng xu bằng đổng, hoặc bóng loáng hoặc xỉn màu, trị giá đến một trăm ba mươi tư đô la. Giấu chúng trong những chiếc hộp trong tủ của tôi…

Tháng Mười một, bảy tuổi. Bố quay về từ nơi một tháng qua ông đã “bới tìm đồng đô la lẩn như chạch,” cụm từ ông rất hay dùng (Lydia và tôi luôn mỉm cười mỗi khi nghe ông nói thế). Ông hỏi những đứa trẻ khác đâu. Chị nói không biết và không thể trông chừng được tất cả chúng. “Phải đếm chứ? Mày đang nghĩ cái chết tiệt gì vậy? Lấy ngay điện thoại gọi đến thành phố nhanh lên.”

“Bố có ở đây đâu mà biết,” chị khóc ầm lên.

Phản ứng bối rối của Bố khiến Lydia và tôi thấy khó hiểu nhưng chắc chắn nó chẳng tốt lành gì.

Trong tủ của tôi có hai trăm năm mươi hai đô la dưới dạng tiền xu, ba mươi ba hộp cà chua, mười tám hộp các loại rau củ khác, mười hai gói SpaghettiO, thứ tôi chẳng thích nhưng tôi có chúng. Quan trọng là chỗ đó.

Tháng Mười, chín tuổi. Mẹ đang gọi điện thoại tới thành phố. Có thêm nhiều đứa trẻ được gửi nuôi khẩn cấp tới nhà tôi. Lúc này có cả thảy chín đứa. Lydia và tôi phụ giúp Mẹ. Chị đã mười bốn tuổi và biết chăm sóc những đứa nhỏ tuổi hơn. Lydia muốn Bố mua cho búp bê bởi vì chị chưa bao giờ có con nào. Nhưng ông lạnh lùng nói họ không thể kiếm được tiền từ thành phố nếu phung phí vào những thứ vớ vẩn đó.

Tháng Năm, mười tuổi. Tôi từ trường học về nhà. Tôi đã phải cắn răng chịu đựng khi lấy một ít tiền xu của mình để mua một con búp bê cho Lydia. Tôi trông đợi sẽ thấy vẻ mặt vui sướng trên gương mặt chị. Nhưng sau đó tôi nhận ra mình đã sai lầm khi để mở hé cửa tủ. Bố vào trong phòng tôi và xé tung những chiếc hộp. Những đồng xu văng ra nằm la liệt như những người lính ngã xuống trên chiến trường. Ông ta nhét chúng đầy các túi và lấy cả những chiếc hộp. “Vì mày đã ăn cắp những đồng tiền này, bây giờ mày sẽ mất chúng.” Tôi òa khóc và giải thích cho ông tôi đã nhặt được những đồng xu đó. “Tốt,” Bố đắc thắng nói. “Tao cũng tìm thấy chúng và điều đó có nghĩa là chúng thuộc về tao… Đúng quá còn gì. Làm sao mày có thể cãi lại lý lẽ đó? Mày không thể. Mà lạy Chúa, đến gần năm trăm đô cơ đấy.” Rồi ông lấy điếu thuốc lá đang giắt trên vành tai xuống.

Muốn hiểu cảm giác khi người khác lấy đi những thứ thuộc về bạn, những chú lính đồ chơi của bạn, những con búp bê của bạn, những đồng xu của bạn ra sao ư? Chỉ cần ngậm mồm và bịt chặt mũi lại. Cảm giác giống như thế đó và bạn không thể chịu đựng được lâu đần.

Tháng Mười, mười một tuổi. Lydia bỏ đi. Không để lại lời nhắn, cũng không cầm theo con búp bê. Jason, mười bốn tuổi, đến ở cùng chúng tôi từ trại mồ côi. Một đêm nó lẻn vào phòng tôi. Nó muốn chiếm chiếc giường của tôi (giường của tôi thì khô ráo, của nó thì không). Tôi phải ngủ trong chiếc giường ẩm ướt của nó trong suốt một tháng. Tôi phàn nàn với Bố. Ông ta bảo tôi ngậm miệng lại. Bọn họ cần tiền và họ nhận được thêm một khoản trợ cấp bổ sung cho những đứa trẻ ED như Jason… Ông ta không nói thêm gì nữa. Tôi không biết ED có nghĩa là gì, lúc đó thì chưa.

Tháng Một, mười hai tuổi. Những ánh đèn nháy đỏ chói. Mẹ khóc rưng rức, những đứa trẻ khác cũng khóc. Vết bỏng trên cánh tay Bố rất đau đớn nhưng người lính cứu hỏa nói, thật may thứ ga hóa lỏng trên tấm nệm đã không bắt cháy quá nhanh. Nếu là xăng thì ông ta đã chết. Trong khi họ mang Jason đi, đôi mắt của nó tối sầm lại dưới đôi lông mày, nó gào lên không biết tại sao hộp ga dùng cho bật lửa và những que diêm đó lại ở trong cặp sách của nó. Nó không làm chuyện đó, không làm! Và nó cũng không hề dán các bức ảnh chụp những người bị thiêu sống trong lớp học ở trường.

Bố quát vào mặt Mẹ. Nhìn xem bà đã làm gì?

Chính ông muốn khoản phụ cấp đó! Bà hét lên đáp lại.

Phụ cấp ED.

Có nghĩa là “bất ổn tâm lý,” như sau này tôi tìm hiểu được.

Những ký ức, những ký ức… A, có những ký ức tôi sẵn lòng vui vẻ tống khứ đi dành chỗ cho một thùng rác to nếu có thể.

Tôi mỉm cười với gia đình im lặng của mình, gia đình Prescott. Sau đó tôi quay lại với rắc rối trước mắt – bọn chúng.

Lúc này tôi đã bình tĩnh hơn, cảm giác bực bội đã dịu đi. Tôi tin chắc rằng cũng giống như ông bố nói dối như cuội của mình, giống như thằng nhóc Jason Stringfellow hốt hoảng khi bị cảnh sát bắt đi, giống như những mười sáu chữ số đã gào thét lên vào khoảnh khắc cao trào của một chuyến đi săn, những kẻ đang săn lùng tôi – bọn chúng- không lâu nữa cũng sẽ chết và chìm vào cát bụi. Tôi sẽ lại được sống những ngày hạnh phúc với gia đình hai chiều trong bức tranh cùng các báu vật của tôi trong căn phòng này.

Những chiến binh của tôi, các dữ liệu, đang chuẩn bị xuất trận. Tôi giống như Hitler ở trong boong ke của ông ta tại Berlin, ra lệnh cho những người lính Waffen-SS (Một nhánh chiến đấu trong lực lượng SS – tổ chức vũ trang của Đảng Đức Quốc xã, chuyên mặc đồng phục màu đen) tiến lên đối diện với những kẻ xâm lược. Chúng sẽ phải chết vì dữ liệu là bất khả chiến bại.

Tôi nhận ra lúc này đã gần mười một giờ đêm. Đã đến giờ theo dõi tin tức. Tôi cần xem bọn chúng đã biết gì về vụ án mạng ở nghĩa trang và những gì bọn chúng không biết. Bật TV lên thôi.

Kênh tin tức đang truyền ‘trực tiếp’ từ Tòa thị chính. Lúc này Phó Thị trưởng, Ron Scott, một người đàn ông có ngoại hình nổi bật, đang giải thích rằng cảnh sát đã thiết lập một lực lượng chuyên trách để điều tra những vụ án mạng và cưỡng dâm diễn ra gần đây, cũng như vụ giết người vừa xảy ra tối nay trong nghĩa trang ở khu Queens, vụ này dường như có liên hệ với các tội ác xảy ra trước đó.

Scott giới thiệu một thanh tra của Sở Cảnh sát New York, Joseph Malloy, người sẽ “trình bày chi tiết hơn về vụ án.”

Ông ta đưa ra một chân dung thủ phạm giống tôi và cũng giống với hai trăm nghìn người khác trong thành phố này.

Da trắng hoặc có nước da sáng màu? Ôi, thôi đi mà.

Ông ta cảnh báo dân chúng hãy thận trọng. “Chúng tôi nghĩ thủ phạm đã sử dụng những công nghệ đánh cắp danh tính để tiếp cận nạn nhân của hắn. Khiến họ mất cảnh giác.”

“Hãy cảnh giác,” ông ta tiếp tục nói, “trước bất cứ ai bạn không quen biết nhưng lại có thông tin về những vụ mua bán, tài khoản ngân hàng, dự định đi nghỉ, quá khứ vi phạm luật giao thông của bạn. Kể cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất mà thông thường không ai để ý đến.”

Trên thực tế, chính quyền thành phố vừa mời đến một chuyên gia về quản lý thông tin và an ninh từ Đại học Camegie Mellon. Tiến sĩ Carlton Soames sẽ dành ra mấy ngày để trợ giúp các nhân viên điều tra, tư vấn cho họ về vấn đề đánh cắp danh tính, đầu mối được coi là hướng tốt nhất để tìm ra thủ phạm.

Soames trông giống như một cậu nhóc đầu bù tóc rối lớn lên tại một thị trấn heo hút vùng Trung Tây đột nhiên gặp vận đỏ với nụ cười đầy lúng túng. Bộ đồ hơi xộc xệch, đôi mắt kính vẹo vọ như tôi nhận thấy bởi hai đốm sáng phản chiếu không cân xứng từ chúng. Và chiếc nhẫn cưới kia đã đeo lâu chưa nhỉ? Tôi dám cá là khá lâu rồi. Có vẻ như anh chàng này thuộc loại lấy vợ sớm.

Anh ta không nói gì mà chỉ trố mắt ra nhìn ngơ ngẩn như một con vật đang hốt hoảng trước đám nhà báo và ông kính camera. Đại úy Malloy tiếp tục: “Trong thời kỳ mà nạn đánh cắp danh tính ngày càng tăng và gây ra những hậu quả ngày càng nghiêm trọng….”

Trò lặp từ này, rõ ràng là vô tình, có vẻ không được hay lắm.

“… chúng tôi đang thực hiện nghiêm túc trách nhiệm bảo vệ các công dân của thành phố này.”

Đám phóng viên ào lên xô đẩy nhau, dồn dập trút lên vị phó thị trưởng, viên đại úy cùng anh chàng tiến sĩ còn chưa kịp hoàn hồn kia những câu hỏi mà thậm chí một cậu nhóc học lớp một cũng trả lời được. Malloy có vẻ lưỡng lự. Cụm từ ‘đang thực hiện’ chính là chiếc khiên mà ông ta mang ra sử dụng.

Phó Thị trưởng Ron Scott một lần nữa trấn an công chúng rằng thành phố vẫn an toàn và mọi biện pháp cần thiết đều đang được tiến hành để bảo vệ họ. Cuộc họp báo kết thúc đột ngột.

Chúng ta quay trở lại với những tin tức thông thường, nếu bạn muốn gọi chúng như vậy. Rau bị nhiễm bẩn ở Texas, một phụ nữ bị mắc kẹt trên nóc xe tải trong trận lụt ở Missouri. Tổng thống bị cảm lạnh.

Tôi tắt TV và ngồi lại trong căn phòng tối lờ mờ của mình, tự hỏi tốt nhất nên tiến hành chuyến đi săn mới như thế nào.

Một ý tưởng chợt đến. Dù rằng nó hiển nhiên đến mức khiến tôi nghi ngờ. Thế nhưng, ngạc nhiên làm sao, chỉ cần ba cú điện thoại gọi đến những khách sạn nằm gần số 1 Police Plaza, tôi đã tìm ra nơi Tiến sĩ Carlton Soames đặt phòng.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.