…làm cách nào anh có thể ngăn chặn nó!
Người Mông Cổ không kể lại giấc mơ của họ.
Mặc ông già Sigmund khốn khổ, ngay cả khi phương Tây giờ đây khiến các vị bác sĩ tâm lý mọc lên nhan nhản tại Oulan-Bator chẳng kém gì các cửa hàng McDonald. Nhưng lại tốt cho mấy người bạn hiếm hoi của Yeruldelgger, vì mỗi giấc mơ của ông đều là một cơn ác mộng.
Từ khi đọc qua các lý thuyết của nhà phân tâm học đầy tham vọng người Áo tại thư viện Trung tâm Văn hóa Pháp, Yeruldelgger vẫn hay tự hỏi không biết ông lão rậm râu này sẽ dùng sự loạn dâm thời thơ ấu nào để lý giải niềm say mê pha lẫn bồn chồn mà ông cảm thấy trước khung cảnh nguyên sơ lộng gió của thảo nguyên bao la. Liệu Freud có biết cưỡi ngựa không, ngoài việc ngồi trong một cỗ xe ngựa tại thành Vienna? Liệu ông ta có thể thu mình lại cô độc trong một căn lều suốt ba tháng mà không lên lớp cho người đời nói chung, và những họ hàng nữ giới mà ông ta thèm muốn tình dục nói riêng? Và liệu ông ta có từng sợ hãi, sợ hãi thực sự, không phải đối với con người, mà là trước tự nhiên? Freud biết gì về những giày vò ông đã phải chịu trong quá khứ, về tâm hồn du mục bị tổn thương, về nỗi kinh hoàng của những xác chết ông phải thu nhặt, ông ta có thể giải thích được điều gì vào thế kỷ trước từ thủ đô nhỏ bé ở châu Âu với các cung điện trắng tinh nơi ông ta sống không? Mỗi buổi sáng đánh thức ông khỏi cơn ác mộng, Yeruldelgger thức dậy là người Mông Cổ, người thừa kế của một đế quốc rộng lớn và trống rỗng, nơi con người vẫn tự do trong cảnh nghèo khó trước sự ngưỡng mộ lớn lao thoáng qua của những người khách du lịch tới, cầm hướng dẫn trên tay, để dạy lại cho họ văn hóa của họ. Và trong giây tiếp theo, Yeruldelgger khoác lên mình các trang bị của một cảnh sát chuyên thu nhặt những linh hồn bị đánh gục và trăn trở suốt ngày để cố hiểu cái gì đã hủy hoại cuộc đời họ. Có lẽ là để khỏi phải nghĩ tiếp về đế quốc rộng lớn và trống rỗng, giống như hình ảnh cuộc đời ông.
Vị cảnh sát trưởng được an bài vào những phòng làm việc tạm thời, trong lúc chờ đợi lần cải tạo không biết thứ bao nhiêu của các phòng ban, trên các tầng của sở cảnh sát. Một tòa nhà thời hậu Xô viết tọa lạc ngay đối diện Tòa án Tối cao và sát cạnh Ủy ban Nhân quyền Quốc gia. Và nói trong đó có người Hàn Quốc và Trung Quốc là để khẳng định người Mông Cổ không có khiếu hài hước. Từ các phòng làm việc nơi ông ngồi cùng nhóm thanh tra của mình, Yeruldelgger không thấy được xe cộ đi lại trên đại lộ rộng rãi có trồng cây và lối vào Tòa án Tối cao. Một tấm màn tạo bởi sáu cái cây trồng bên rìa bãi để xe đã che khuất tầm mắt ông.
Sáng hôm sau, ông đang bận rộn với giấy tờ trong phòng làm việc thì Oyun bước vào.
“Ngủ không ngon sao, cảnh sát trưởng?”
“Phải!” ông xác nhận với giọng cấm cẳn.
“Càng hay, chuyện này làm tôi thấy an tâm!” cô trả lời, chẳng buồn để ý tới tâm trạng của cấp trên. “Tôi không muốn làm hỏng buổi sáng tốt lành của ông.”
“Được rồi! Vậy các tin xấu là gì nào?”
“Chỉ một thôi, thưa cảnh sát trưởng. Solongo khẳng định là chúng ta đã nhầm về mấy người Trung Quốc và chúng ta sai bét. Chị ấy muốn ông qua chỗ chị ấy ngay lập tức.”
“Giờ thì cô ấy ra lệnh cho tôi cơ đấy!” Yeruldelgger làm ra vẻ bực bội.
“Tôi có cảm giác chuyện đó diễn ra cũng được một thời gian rồi mà!” Oyun táo tợn buông một câu đùa cợt.
Yeruldelgger thở dài một hơi, đưa mắt nhìn qua cửa sổ rồi đứng dậy đi tới thang máy.
“Bảo cô ấy tôi sẽ có mặt tại đó sau nửa giờ nữa.”
“Ông đi bộ trong lúc khẩn cấp sao?” cô thanh tra trẻ hỏi thêm một câu táo tợn hơn nửa.
“Với các bác sĩ pháp y thì chẳng bao giờ có chuyện gì khẩn cấp cả, Oyun, đó là điều duy nhất hay ho trong công việc của họ,” vị cảnh sát trưởng trả lời trong lúc cửa thang máy uể oải nuốt trọn tiếng ông.
Ông rẽ trái khi rời khỏi sở, băng qua đại lộ để đi dọc theo tòa nhà Tòa án Tối cao cho tới tận khu vườn lớn. Ông rẽ khi vừa tới chỗ nhà Quốc hội và quảng trường rộng mênh mông, nơi khiến các du khách trở nên lúng túng và nhỏ bé giữa nền cẩm thạch sáng màu của nó. Ông bước đi trong luồng khói xả của các loại xăng kém phẩm chất cháy không hết cho tới khi bắt gặp thứ tiếng ồn khó chịu của Đại lộ Hòa Bình, rồi ông rẽ trái đi ngang qua tấm lưới đồ sộ bằng kính và thép của Blue Sky Tower.
Cảnh hỗn loạn của thành phố đang xây dựng luôn làm ông kinh ngạc, nhưng điều khiến ông ấn tượng hơn nữa, là sự xấu xí của các công trình trong quá khứ. Toàn bộ sự kỳ quái của kiểu kiến trúc Xô viết, hay đúng hơn là thứ phi kiến trúc này, chợt hiện rõ khi so sánh với những tòa nhà thanh thoát và kiêu hãnh đang được xây dựng. Vẻ xấu xí tự phụ của các tòa nhà công vụ cũ, vẻ xấu xí vô liêm sỉ của những khu nhà ở tập thể. Như thể cả lĩnh vực kiến trúc cũng tham gia vào công cuộc hủy hoại nền văn hóa Mông Cổ. Nghiền nát ngôn ngữ và chữ viết, nghiền nát truyền thống, nghiền nát đức tin, cho tới nghiền nát cả quan niệm giản đơn về cái đẹp dưới hàng tấn bê tông, trong sự xấu xí của những thứ thường nhật, trong sự thô kệch của các hình khối, sự phủ nhận của chi tiết và trang trí. Khi đi bộ qua thành phố, Yeruldelgger tự hỏi liệu việc không phá hủy các tòa nhà của thời kỳ trước có phải là một kiểu báo thù tế nhị không. Một kiểu báo thù ngấm ngầm bằng cách để mặc chúng xuống cấp tại chỗ trong khi một thành phố đẹp đẽ và rực rỡ mọc lên từ mặt đất quanh chúng.
Sau khi đi qua Bộ Ngoại giao, ông rẽ phải, đi tiếp hai mươi mét và bước vào bệnh viện số 1, nơi Solongo làm việc ở khoa Pháp y tại tầng trệt của một khu nhà nhỏ phía trong.
“Có vẻ như em muốn làm hỏng ngày hôm nay của anh thì phải?” Yeruldelgger hỏi từ sau lưng cô bác sĩ pháp y đang nói chuyện với một sinh viên nội trú ngoài hành lang.
Solongo phác một cử chỉ xin lỗi cậu sinh viên rồi quay lại đối diện với vị cảnh sát trưởng.
“Không cần phải nhọc công thế, đám chuột sa mạc của anh đã tự làm chuyện đó quá tốt rồi.”
“Đám chuột sa mạc của anh?”
“Chẳng phải anh vẫn gọi các nhân viên điều tra của mình thế sao?”
“Phải, nhưng em không nhất thiết phải biết!”
“Tất cả mọi người đều biết!”
“Kể cả họ?”
“Kể cả họ!”
“Được lắm, vậy đám chuột sa mạc của anh đã làm gì nào?” ông sốt ruột.
“Điều làm em thấy ngứa tai,” Solongo đáp,. “là khi Oyun gọi điện cho em sáng nay để hỏi em tin tức về năm kẻ ‘bị Satan ám’ của anh.”
“….!?”
“….!”
“Solongo!”
“Hỏi em vì sao đi chứ!”
“Vì sao cái gì cơ?” Yeruldelgger bực bội.
“Thì vì sao điều đó khiến em ngứa tai!”
“À phải, vậy thì vì sao?”
“Vì cô ấy đã dùng mấy từ ‘bị Satan ám’.”
“Và?” ông vừa hỏi vừa cố giữ bình tĩnh.
“Và em đã hỏi vì sao cô ấy lại nói thế.”
“Và?”
“Và cô ấy nói với em đó là vì những dấu vết trên các cơ thể.”
“Rồi sao?”
“Và em đã hỏi cô ấy nhặt nhạnh được ý tưởng đó từ đâu.”
“Rồi sao?”
“Và cô ấy nói với em rằng một nữ thanh tra trẻ đã nhận ra những biểu tượng về Satan.”
“Solongo?”
“Vâng?”
“Anh sắp mất kiên nhẫn rồi đấy!”
“Được rồi, được rồi, đồng ý, em sẽ ngắn gọn. Cô nàng nữ thanh tra trẻ tuổi của anh…Người ta gọi là thanh tra hay nữ thanh tra nhỉ?”
“Anh không quan tâm, Solongo!”
“Được rồi, nói tóm lại là cô nàng đã nhầm. Biểu tượng của Satan là một ngôi sao năm cánh. Nó được cho là thể hiện bốn yếu tố: nước, không khí, lửa và đất, cùng với linh hồn. Nó có bốn cánh chĩa sang hai bên và cánh của Linh hồn Xấu xa luôn chĩa xuống dưới.”
Cô nắm lấy tay ông và kéo ông vào tận phòng giải phẫu tử thi, vừa đi vừa tiếp tục giải thích.
“Người ta cũng nói đó là biểu tượng của Baphomet, vị thần đầu dê, với hai sừng hướng lên trên, hai cánh sao chĩa sang phải và trái tượng trưng cho đôi tai, còn một cánh chĩa xuống dưới thể hiện chòm râu cằm. Và thường thì hình sao năm cánh luôn được đặt nằm trong một vòng tròn tượng trưng cho sự thống nhất và khả năng làm chủ mọi yếu tố.”
Họ đã tới phòng giải phẫu tử thi, và cô bác sĩ pháp y đẩy cửa vào. Thi thể hai người Trung Quốc bị thiến nằm dài trên mấy chiếc bàn kim loại. Thi thể người Trung Quốc thứ ba và hai cô gái đang nằm trên cáng kê song song với hai chiếc bàn. Yeruldelgger lập tức nhận ra Solongo đã phủ kín thi thể của hai cô gái để linh hồn họ khỏi phải hổ thẹn.
“Nhìn này,” cô nói trong khi lại gần bàn giải phẫu thứ nhất. “Đây không phải hình sao năm cánh. Hình này được gọi là tấm khiên David. Một hình sáu cánh được tạo thành từ hai tam giác đều lồng vào nhau. Chính diện và phản diện xâm nhập vào nhau, cân bằng lẫn nhau. Một kiểu Âm và Dương của phương Tây. Người ta còn gọi là ngôi sao của thần Moloch, hoặc của thần sao Thổ. Hay là ngôi sao Do Thái, kể từ khi biểu tượng này được cộng đồng người Do Thái tại Praha ở châu Âu chấp thuận vào thế kỷ 17. Đây cũng là biểu tượng được các hội viên Hội Tam Điểm, một hội kín phương Tây hùng mạnh, sử dụng. Nhưng thực ra biểu tượng này có nguồn gốc từ Ấn Độ. Dù thế nào đi nữa cũng không phải là biểu tượng của Satan, và đám người Trung Quốc của anh không phải bị các tín đồ sùng bái một gã có sừng với cái đuôi chẻ nhánh cắt mất của quý.”
Yeruldelgger im lặng quan sát hồi lâu năm xác chết.
“Năm linh hồn khốn khổ này thì có gì liên quan tới ngôi sao Do Thái chứ?” ông tự hỏi thành tiếng. “Nói xem, Solongo, có phải tất cả các biểu tượng trên người họ đều giống nhau không?”
“Tất cả đều giống nhau, cùng là một biểu tượng.”
“Không có chút khác biệt nào à?”
“Không hề, ngoại trừ với hai cô gái, nó được rạch lên vú trái của họ.”
“Trên vú trái…”
“Phải, trên vú trái. Đó là khác biệt duy nhất so với mấy người đàn ông. Ngoại trừ mái tóc bị cắt trụi, tất nhiên rồi!”
Yeruldelgger phản ứng dữ dội với mấy từ cuối cùng này, đến nỗi Solongo giật mình.
“Bị cắt trụi, phải rồi! Họ bị cắt trụi tóc! Đúng thế! Họ bị cắt trụi tóc! Phải rồi, anh hiểu rồi! Chết tiệt thật, nhưng đúng là thế! Họ bị cắt trụi tóc!”
“Em cũng có thể hiểu được chứ?”
“Tất nhiên, tất nhiên! Em cũng sẽ hiểu tất cả,” Yeruldelgger trả lời rồi vội vàng bước ra khỏi phòng giải phẫu tử thi với nữ bác sĩ pháp y theo sau.
Ngay khi họ ra đến hành lang, ông bắt đầu chạy và giục Solongo theo mình.
“Lại đây, em sẽ hiểu! Em có xe ở đây chứ? Anh để xe của anh ở sở rồi. Anh cần một chiếc ô tô! Em phải đi cùng anh và em sẽ hiểu. Nhanh lên!”
“Yeruldelgger, đợi đã, em có việc! Chúng ta đi đâu đấy?”
“Tới Trung tâm Văn hóa Pháp, anh cần em cùng anh đi ngay tới Trung tâm Văn hóa Pháp!”
Solongo từng nghe Yeruldelgger hát lẩm nhẩm những giai điệu xa lạ nhàm chán bằng tiếng Pháp. Đôi khi, trong lúc đi qua thảo nguyên trên chiếc xe jeep của mình, ông nghe hàng giờ liền những ca sĩ có giọng hát và cái tên lạ lùng. Aznavour, Gainsbourg, Bashung… Nhưng cô không hề biết ông từng theo học tại Trung tâm Văn hóa Pháp.
Mười lăm phút sau, họ tới nơi. Nơi này nằm thẳng về phía Bắc khi đi từ bệnh viện, không xa những căn lều lớn bằng bê tông được trang trí của thiền viện Dashchoilin.
Solongo đi theo Yeruldelgger, ông đi qua nhiều phòng làm việc nhỏ như thể đang ở nhà, chào hỏi bằng tiếng Pháp rất thoải mái rồi ôm hôn theo kiểu Pháp những người phụ nữ ông gặp và họ có vẻ rất vui khi gặp lại ông. Họ để ông đi về phía thư viện nhỏ với những hàng giá đầy chật sách cũ. Yeruldelgger ra hiệu bảo Solongo tới bên ông, đứng trước giá xếp những cuốn sách lịch sử, không chút do dự rút ra một quyển sách nhỏ còn khá mới và dịch cho cô nghe tiêu đề: Những phụ nữ bị cắt tóc, cùng dòng tiêu đề phụ ‘Thủ phạm, tình nhân, nạn nhân’. Cuốn sách có vẻ mới và tên tác giả là Julie Desmarais.
“Xem này. Đột nhiên anh chợt nhớ ra cuốn sách này. Sau chiến tranh tại Pháp, gần hai mươi nghìn phụ nữ bị cắt trụi tóc vì đã quan hệ với người Đức.”
“Quan hệ?”
“Phải, qua lại, ngủ, yêu, nếu em thích nói rõ như vậy hơn!”
“Hai mươi nghìn! Em chưa bao giờ nghe nói về chuyện này.”
“Em muốn sao đây,” ông triết lý,. “trong thế giới của chúng ta thường là ‘khổ ai nấy chịu’. Theo em, có bao nhiêu người Pháp biết rằng vào những năm hai mươi, Nam tước Điên của chúng ta đã cho giội nước sôi hay ném hàng nghìn đàn ông và phụ nữ vào nồi hơi đầu máy xe lửa? Các cuộc chiến tranh đầy bẩn thỉu, và các chiến thắng cũng vậy.”
Solongo ngắm nhìn bìa sách. Trên đó có hình những người phụ nữ sợ hãi hoặc cam chịu, đầu bị cạo trọc, bị một đám đông hân hoan tàn nhẫn xô đẩy. Một trong số họ mang trên ngực một chữ thập ngoặc Quốc xã.
“Tại sao anh lại cho em xem những thứ kinh khủng này?” nữ bác sĩ pháp y hỏi.
“Vì anh nghĩ vụ án này cũng tương tự. Hai cô gái bị giết, bị cắt trụi tóc vì đã ngủ với đám người Trung Quốc.”
“Nhưng chúng ta đâu có bị người Trung Quốc chiếm đóng!”
“Với một bộ phận người dân thì có đấy. Chúng ta chịu sự thao túng về kinh tế của đám người Trung Quốc luôn xử sự như những kẻ chiếm đóng.”
“Anh thực sự nghĩ như những gì anh vừa nói sao?”
“Đó không phải là những gì anh nghĩ, nhưng nhiều người tin chắc như vậy. Số vụ tấn công người Trung Quốc và Hàn Quốc đã tăng gấp đôi kể từ năm ngoái.”
Solongo có vẻ choáng váng trước những gì cô nghe thấy. Bạo lực của đám đông và các lý tưởng luôn khiến cô ghê sợ hơn bạo lực của các cá nhân. Trong lúc để lại cuốn sách của Julie Desmarais lên giá, cô lướt nhanh qua những cuốn sách khác đề cập đến cùng giai đoạn và dừng lại ở một cuốn viết về việc đẩy người Do Thái vào các trại tập trung.
“Xem này,” cô nói với Yeruldelgger. “Đây là ngôi sao Do Thái em nói với anh. Tấm khiên David. Họ viết gì vậy?” cô hỏi, chỉ tay lên phần chú thích của bức ảnh. “Anh dịch được chứ?”
Yeruldelgger cầm lấy cuốn sách từ tay cô và đọc lần đầu thật khẽ. Sau đó, ông hắng giọng, như một học sinh không thoải mái sắp phải đọc thuộc lòng, đưa ngón trỏ theo từng từ ông dịch.
“…Mệnh lệnh số tám của Bộ Chỉ huy Đức tại Pháp, ngày 29 tháng Năm năm 1942: Cấm người Do Thái từ sáu tuổi trở lên xuất hiện ở nơi công cộng mà không đeo ngôi sao Do Thái. Ngôi sao Do Thái là một hình ngôi sao sáu cánh có kích cỡ bằng lòng bàn tay và đường viền màu đen, làm bằng vải vàng và có ghi từ ‘Do Thái’ bằng chữ cái màu đen. Ngôi sao cần được đeo ở vị trí dễ thấy trên ngực trái, được khâu chắc vào trang phục.”
“Yeruldelgger, hai người phụ nữ bị treo cổ cũng có hình ngôi sao bị rạch trên vú trái!”
“Nhưng như thế thật vô nghĩa!” ông nhận xét. “Thật vô cùng ngu ngốc khi tố cáo rằng những người này vừa là dân Do Thái vừa là những kẻ cấu kết với phe địch! Anh không thấy liên quan đến nhau, Solongo ạ, giả thiết này không đứng vững được!”
Cô không trả lời ngay. Cô đứng một lúc, ánh mắt trống rỗng, lắc đầu rất khẽ như thể không muốn tin những gì sắp nói ra.
“Có liên quan đấy, Yeruldelgger ạ, và thật không may mối liên quan này là sự ngu xuẩn. Vụ tàn sát man rợ này là tác phẩm của những kẻ ngu ngốc, chúng trộn lẫn tất cả, và mối liên quan giữa tất cả những chi tiết này, những kẻ ‘chiếm đóng’ người Trung Quốc, những phụ nữ Mông Cổ ‘bị cắt trụi tóc’, đến ngôi sao Do Thái, chính là ý thức hệ Quốc xã. Thứ chủ nghĩa Quốc xã hổ lốn kiểu Mông Cổ. Thứ chủ nghĩa dân tộc bài ngoại đang phát triển tại Oulan-Bator. Đây không phải là một tội ác do sùng bái Satan, Yeruldelgger ạ, và gần như em lại muốn nó là vậy hơn. Đây là một tội ác phân biệt chủng tộc và chính trị, và thẳng thắn mà nói, nó làm em thấy sợ, vì em không biết làm cách nào anh có thể ngăn chặn nó!”