Cứ đi thu nhặt những mẫu Trung Quốc của anh đi!
Đã tám lần cô tháo dỡ nó để chuyển khu. Cô không thể đi đến quyết định sống trong một ngôi nhà, cho dù căn lều của cô ngày nay chẳng có gì phải ghen tị với những ngôi nhà đồng quê kiểu Nga mới mà cánh thị dân và những người giàu mới nổi xây dụng chi chít ở ngoại ô Oulan-Bator. Trong năm lần đầu tiên được cô gọi là những lần chuyển nơi chăn thả của mình, cô kỳ thực đã tiến gần lại thành phố đến mức dựng cán lều của mình trên một miếng đất nhỏ cô thuê trong khu đất chỉ cách khách sạn Hilton có năm mươi mét, ở ngay giữa quận trung tâm. Vẻ đẹp rạng rỡ của cô, căn lều cô sở hữu nằm giữa trung tâm thành phố cũng như công việc cảnh sát của cô đã nhanh chóng biến cô thành nguồn cảm hứng cho những đêm hoang dại mới mẻ của thủ đô đang hồi sinh. Lẽ ra cô có thể kết hôn với bất cứ ai trong số những kẻ theo đuổi giàu có khi đó. Những tay chủ đất địa phương, đám tài phiệt Nga mới phất đổi gió, các ông trùm người Trung Quốc, tất cả họ đều mơ đưa được cô đi ăn tối dưới ánh nến tại Hilton rồi quay về làm tình dưới ánh nến trong căn lều của cô. Cô gái Mông Cổ xinh đẹp và đầy kiêu hãnh, người chẳng thèm để mắt tới bọn họ.
Ngày hôm nay đáng lẽ cô đã có thể sở hữu một dinh thự đồng quê bên rìa các khu rừng phía Bắc và một khu trại có cả ngựa trong công viên quốc gia Terelj, một chiếc Toyota to tướng kính đen để đi lại trong thành phố và một chiếc tương tự cho những chuyến đi về nông thôn, ngoài hai chiếc xe nhỏ để đi mua sắm. Khi kết hôn với bất cứ ai trong số những tay giàu có ấy, cô sẽ đi cùng khi anh ta tới chơi golf trên đường Olympic và chơi tennis đợi anh ta ở cách đó xa hơn một chút với những cô nàng xa xứ tính tình đồng bóng. Và cô sẽ để anh ta đi săn ở vùng Altaï cùng đám bạn cho đến say mềm rồi phản bội cô với những ả điếm Nga, trong khi về phần mình cô cũng có thể thoải mái tranh thủ với một anh chàng tình nhân phương Tây.
Nhưng cô đã thay đổi. Hẳn là do công việc của cô, do cái chết và những xác chết, hình ảnh của tất cả những linh hồn do Yeruldelgger thu nhận về để lên bàn của cô. Sự im lặng của việc giải phẫu tử thi, sự nghiêm trang của cái chết và vẻ xấu xí của các thi thể. Hàng đêm dài cúi người nhìn xuống những cuộc đời bị cắt ngang, để tự hỏi đâu là đoạn kết của chính mình. Cô từng tin mình có thể tránh phải trả lời bằng cách chỉ sống, thật gấp gáp, bằng mọi giá. Cần phải để cái chết đuổi kịp để cô hiểu ra chạy trốn nó chỉ là vô ích. Một buổi sáng, Yeruldelgger bước vào phòng giải phẫu tử thi của cô bế trên tay thi thể một đứa trẻ. Chính là con ông. Con gái bé bỏng của ông. Kushi yêu dấu của ông.
Người đàn ông cô vẫn ngưỡng mộ từng là một tảng đá, và cô đã chứng kiến tảng đá nứt rạn, và Yeruldelgger đã cạn hết phần cát bên trong để chỉ còn là lớp thạch cao trống rỗng. Ông đứng đó, trước mặt cô, nước mắt đầm đìa, và sự im lặng của ông dữ dội tới mức mười năm sau, vào buổi tối khi cô nhớ lại lúc đó, âm hưởng của nó vẫn còn vang vọng.
Sau những đêm đó, cô đã chạy trốn tới náu mình ở phía Bắc, tận cuối đường Tokyo, quá Altaï Mongolian Barbecue hai con phố nhỏ. Cô dựng căn lều của mình trong một bãi để xe cũ cho tới khi một trong những cô bạn trước đây tại các buổi say sưa bắt gặp cô đi ra khỏi nhà hàng vốn trở nên cực kỳ được ưa chuộng nhờ dòng khách du lịch mới. Vậy là cô lại thu dọn tất cả để tới dựng lều tại nơi những người quen cũ của mình sẽ không bao giờ đặt chân tới. Ở quận 6, giữa trường số 79 và bản doanh của dân giang hồ tại chợ ô tô. Tại khu vực của dân du đãng, đám lái ngựa xảo trả và dân trộm cắp này, chỉ có mình Yeruldelgger ghé qua thăm cô để đảm bảo là cô vẫn ổn. Và với cô như vậy thật tốt. Nhiều lần, vị cảnh sát trưởng tháp tùng cô qua những con hẻm nổi tiếng nguy hiểm, những bãi rác ô tô và các gara lậu. Họ từng tới ngồi ăn trong quán ăn rẻ tiền của những kẻ trí trá, uống trong những căn nhà tồi tàn là tửu quán cho đám thợ máy, và cái bóng mạnh mẽ của Yeruldelgger tháp tùng cô mỗi tối trở về qua những con hẻm tối om, đôi mắt ông nhìn thẳng vào mắt những người họ bắt gặp. Khi tất cả mọi người đều rõ cô gái trẻ là người được Yeruldelgger bảo vệ, một tình trạng ngầm được thiết lập để cô được yên. Một sự dàn xếp thậm chí còn đẩy đám du đãng ở khu vực đó tới chỗ canh chừng bảo vệ cô khỏi những kẻ quấy rầy dọc đường để tránh gặp phiền phức với vị cảnh sát trưởng.
Chính vào thời gian đó Solongo đã hình thành thói quen giữ ông ở lại chỗ cô qua đêm. Để trấn áp nỗi sợ hãi vẫn thỉnh thoảng trào lên thổn thức.
Solongo luôn có một chiếc giường dành cho khách trong lều, nhưng ông thì luôn nhặt lấy ba bốn cái chăn to rồi thậm chí ngủ ngay dưới đất. Solongo ngủ cạnh ông, trên chiếc giường kiểu truyền thống sơn màu đỏ xen vàng của cô, và quan sát hồi lâu tấm lưng mạnh mẽ của Yeruldelgger nhô lên theo tiếng ngáy to đều đặn trước khi ngủ của ông. Việc ông ở chỗ cô cũng giống như một tảng đá thiêng hiện diện trong khu vườn Nhật Bản. Hơi thở của người đàn ông xua tan khỏi cô mọi nỗi sợ hãi, mọi cơn run rẩy, mọi cảm giác hoảng hốt. Chẳng mấy chốc, cô chìm vào nhịp thở đều đặn, và một giấc ngủ bình yên, thư thái chiếm lấy cô. Đã phải mất ba năm để Yeruldelgger đồng ý ngủ trên giường của Solongo, và ông chỉ đồng ý với điều kiện không trở thành bạn trai của cô.
“Em dậy rồi cơ à?” ông ngạc nhiên.
“Vâng. Em còn có cô bé con và ba anh chàng Trung Quốc của anh trong ngày hôm nay nữa đấy, đừng có quên!”
“Trời ạ, quả đúng thế thật!” Yeruldelgger vừa thở dài vừa hất chăn ra.
Solongo nhấp từng ngụm nhỏ từ bát trà bơ mặn nóng bỏng giãy đang bưng bằng cả hai tay. Cô mặc chiếc váy dài trong nhà màu đỏ sẫm có thêu hoa văn truyền thống hình nút thắt vô tận. Ông thầm nghĩ cô thực sự rất đẹp, còn cô nhìn ông mình trần rời khỏi giường.
“Chúng ta làm thành một đôi thật kỳ cục, anh không nghĩ thế sao?”
“Vì sao cơ? Vì chúng ta ngủ trần cùng nhau mà không làm tình à?”
“Vâng, một phần là vì thế, và vì cả những chuyện còn lại nữa.”
“Anh thấy thích thế này,” Yeruldelgger nói trong lúc kéo rèm ngăn phòng tắm nhỏ có vòi hoa sen.
Với vị cảnh sát trưởng, Solongo vẫn là một bí ẩn, và đam mê cô dành cho khoa học đôi khi đẩy cô tới những cách cư xử thần bí vừa làm ông hoang mang vừa khiến ông yêu cô say đắm. Giống như tấm bảng nhỏ gồm các nguyên tố hóa học mà cô gọi là bảng tuần hoàn Mendeleev. Đó là vật trang trí tường duy nhất trong căn lều cũng như tại phòng làm việc của cô ở bệnh viện. Ông có thể hiểu niềm say mê với bản danh sách nhỏ tất cả các nguyên tố hóa học nào đó tạo nên cả vũ trụ của cô, nhưng cô lại nói tới nét cám dỗ các giác quan khi đối diện với những biểu tượng này. Kỳ thực, ông rất thích cảm thấy mình kém cỏi và không biết gì khi đối diện với những suy ngẫm khoa học hay những lời giải thích của cô. Một ngày nọ, khi ông ngẩn người ra khi nhìn thấy giờ được hiển thị trên một màn hình trong mờ mà không thể hiểu được nguyên lý hiển thị kỹ thuật số, cô đã bảo ông hình dung ra một đàn cá rất mỏng, như đám cá bơn vậy. Mỏng đến mức nhìn trực diện phía trước người ta không thể trông thấy chúng, trừ phi có một dòng điện nhỏ buộc chúng phải xoay sang mặt bên. Và thế là giờ đây ông nhìn những tấm biển hiển thị kỹ thuật số như những đàn cá bị điện giật từng cú một, và ông yêu Solongo vì điều kỳ diệu này.
Sau thời gian sống ở khu chợ ô tô, cuối cùng Solongo cũng quyết định không trốn tránh những bóng ma của cô nữa và ổn định tại một nơi cô thích sống ở Oulan-Bator. Từ lâu cô đã dự định chuyển lên phía Bắc, đến tận những cánh rừng đầu tiên vắt ngang núi, song cô lại muốn ở lại trong thành phố. Chính Yeruldelgger là người đầu tiên đưa cô đến vùng phía Đông khu Keshaar vào một ngày Chủ nhật. Cô khám phá ra một không gian xanh rộng lớn được chừa ra từ thành phố vốn đã bao quanh nó về phía Nam. Khu đất lầy và nhão, vẫn còn quá xốp để làm móng nhà và quá ẩm ướt cho những căn lều. Một lòng sông cổ tràn bờ uốn lượn chạy từ Bắc xuống Nam và từng có thời đổ vào sông Tuul. Nền đất mấp mô khiến khu đồng cỏ rộng này trũng xuống thành một vũng ẩm thấp, và Solongo tìm thấy ở ngay rìa nơi này, phía Tây, một vuông đất đẹp đẽ ở tận cuối khu dành cho người điên, đằng sau bệnh viện tâm thần lớn. Lúc đó, cô liền tặng căn lều cũ cho người họ hàng xa rồi mua một căn mới, lớn hơn rất nhiều, kiểu một trong số những căn lều ngày nay được dùng làm nhà hàng tại các khu cắm trại cho khách du lịch. Lần đầu tiên, cô cho làm sàn trong lều và sắp xếp bên trong đầy đủ tiện nghi, cho dù vẫn bố trí các gian theo truyền thống. Song điều làm Yeruldelgger cảm thấy nhẹ nhõm hơn hết thảy khi ông tới chỗ Solongo là khu vườn cô đã tạo nên ở đằng trước, giữa căn lều và bãi cỏ. Trong thành phố của đá và bụi mà giờ đây đã trở thành cửa kính và bê tông, ở đất nước đã chặt hạ cơ man là cây để tạo ra cũng chừng đấy hoang mạc, Solongo đã biến vuông đất của cô thành một khu vườn xanh. Cô trồng một cây đoạn và một cây thông, và Yeruldelgger tặng cho cô một cây bạch dương trắng. Cô trồng những khóm húng tây, một cây tầm xuân và một cây đỗ quyên, và Yeruldelgger lại tặng cho cô một cây đại hoàng. Cô chọn một cây việt quất đen, một cây lý chua, còn ông là một cây cỏ chét. Cô trồng một cây ngải đắng, cây long đởm và những cây phong lữ, ông góp những cây cúc tây. Gần đây nhất, cô trồng một cây thông rụng lá con và một cây thông giống Scotland, còn Yeruldelgger tặng cô ba cây dương con. Khu vườn của Solongo trở nên đẹp đến mức những người qua lại khi trông thấy hoa và tán lá nhỏ len qua dãy lan can gỗ đã nghĩ nơi này tọa lạc một thiền viện. Xa hơn về phía Bắc, những người trồng rau tận dụng dòng chảy xanh này để trồng cà chua, dưa chuột và những loại quả cung cấp cho thành phố. Chẳng mấy chốc trước mặt khu vườn xanh mướt của cô trải rộng những thửa vườn vuông vắn và đầy màu sắc của các loại rau và cây ăn quả. Và Solongo vui mừng trước biến chuyển đó. Cả Yeruldelgger cũng vậy.
“Anh thấy thích thế này,” ông nhắc lại, khi đã mặc đồ chỉnh tề, quay mặt về phía khu vườn, đúng lúc điện thoại của ông đỗ chuông.
Màn hình hiện lên tên Oyun.
“Gì vậy, Oyun?”
“Tôi đã tìm thấy của quý của mấy người Trung Quốc chúng ta phụ trách rồi!”
“Ở đâu vậy?”
“À, cái này thì, cảnh sát trưởng, ông nhất định phải tới xem mới tin được!”
“Nhất trí thôi, nói cho tôi biết xem ở đâu.”
“Đợi đã, ông đừng có ăn sáng ngay đấy. Trông không được bắt mắt lắm đâu!”
“Quá muộn, tôi vừa ăn xong rồi.”
“Vậy thì tôi khuyên ông cố mà nôn hết ra trước khi tới đây. Khu chợ container. Chỗ đằng sau chợ đen nếu ông đi về phía Đông. Ngay trước mặt khu đất có rào đặt trạm biến áp.”
“Tôi biết rồi. Tôi ăn nốt chỗ quả việt quất đen trộn kem rồi sẽ tới ngay.”
“Để yên chúng ở đó đi, cảnh sát trưởng, tôi không thích thấy chúng dính lên giày của tôi đâu!”
Yeruldelgger trở vào trong lều. Solongo đã mặc một chiếc quần jean và áo bó màu trắng.
“Họ đã tìm thấy những mẫu còn thiếu của mấy anh chàng Trung Quốc của anh,” ông vừa nói vừa đặt tách của mình lên mặt một chiếc tủ nhỏ nhiều ngăn kéo.
“Ý anh muốn nói là mấy anh chàng Trung Quốc của em chứ gì!” cô bác sĩ pháp y trả lời trong lúc cầm chiếc tách lên để rửa qua rồi úp lên gờ úp bát đĩa cạnh bồn rửa. “Em đoán là hôm nay anh sẽ cần rất nhiều câu trả lời.”
“Phải, và em có thể trông đợi là anh sẽ đặt ra cho em rất nhiều câu hỏi khác nữa. Em sẽ bắt đầu từ ai?”
“Cô bé con, tất nhiên rồi. Chẳng phải anh muốn thế sao?”
“Phải,” Yeruldelgger mỉm cười thừa nhận, hài lòng vì cô hiểu ông rõ đến thế. “Chăm lo cẩn thận cho cô bé, một ông lão đã phó thác linh hồn cô bé cho anh…”
Solongo thấy bức màn phiền muộn làm tối sầm đôi mắt bạn mình và chọn cách không đáp lại.
“Em sẽ lo cho cô bé. Cứ đi thu nhặt những mẫu Trung Quốc của anh đi!”