Thưa Ngài Tai Tiếng, tôi nóng lòng muốn kể ngài nghe những điều ông ấy vừa nói – lời nói vô cùng bí hiểm, như đánh đố người ta.
William Congreve
Love for love
Strike đã nghĩ rằng nhà hàng Simpson’s-in-the-Strand, nơi Jerry Waldegrave muốn hẹn ăn trưa với hắn, thật là một lựa chọn lạ lùng. Càng tiến đến gần mặt tiền đá, cửa gỗ xoay, những tấm biển đồng và chiếc đèn lồng treo trước lối vào, hắn càng thấy tò mò. Lối vào nhà hàng ốp gạch theo motif bàn cờ. Hắn chưa bao giờ đặt chân vào đây cả, mặc dù nơi này có tiếng lâu đời ở London. Strike vẫn nghĩ Simpson’s là nơi chốn của các doanh nhân giàu có và khách phương xa ưa xài sang một bữa.
Nhưng khi bước vào sảnh hắn lại thấy vô cùng thân thuộc. Nhà hàng từng là câu lạc bộ cờ của các quý ông hồi thế kỷ mười tám; vẻ tôn ti, ngăn nắp và mực thước trang nghiêm làm hắn thấy thực sự dễ chịu. Nơi đây người ta chọn những màu tối, sâm sẫm đúng kiểu câu lạc bộ cho cánh đàn ông dứt khoát hễ vô đây là để vợ ở nhà: những chiếc cột đá dày và ghế bành bọc da chắc chắn, đủ sức đỡ các quý ông lè nhè. Đằng sau hai cánh cửa, qua khỏi cô gái đứng nhận cất áo khoác cho khách là một không gian với những bức tường ốp ván gỗ màu tối. Hắn thấy như đang trở về những câu lạc bộ thư giãn của quân nhân mà hắn thường lui tới lúc còn tại ngũ. Chỉ cần thêm mỗi lá cờ của đơn vị và một bức chân dung Nữ hoàng là đúng y cảnh cũ người xưa.
Hắn nhìn quanh: ghế tựa bằng gỗ tự nhiên, khăn trải bàn trắng tinh, mâm bạc bày những súc thịt bò bỏ lò đồ sộ. Strike ngồi xuống bàn cho hai người cạnh tường, tự dưng hắn nghĩ nếu đến đây Robin sẽ thấy thế nào, không biết cô sẽ thấy chất truyền thống đậm đặc của nơi này tức cười hay khó chịu.
Hắn ngồi khoảng mười phút thì Waldegrave xuất hiện, nhìn quanh nhà hàng bằng cặp mắt cận. Strike đưa tay lên, Waldegrave liêu xiêu tiến về phía bàn hắn.
“A, xin chào… Rất vui gặp lại anh.”
Mái tóc đen của ông ta vẫn rối bời như trước, áo vét nhăn nhúm, trên ve áo dính một vệt kem đánh răng. Strike thoáng nghe hơi rượu khá nồng.
“Cảm ơn ông đã đến gặp tôi,” Strike đáp.
“Không sao. Tôi cũng muốn giúp mà. Hi vọng anh không ngại gặp ở đây. Tôi chọn nơi này,” Waldegrave tiếp, “vì sẽ không thể gặp người quen được. Ông cụ nhà tôi có dẫn tôi đến đây một lần, lâu lắm rồi. Đó giờ cũng chẳng thay đổi gì.”
Đôi mắt tròn đóng khung trong cặp kính gọng sừng của Waldegrave liếc một vòng quanh những chi tiết thạch cao đúc nặng nề bên trên vách ốp ván gỗ màu tối. Chúng điểm màu đất son loang lổ, như thể do ám đầy khói thuốc lá chừng đó năm.
“Chán đồng nghiệp lắm rồi sao?” Strike hỏi.
“Đồng nghiệp chẳng vấn đề gì,” Jerry Waldegrave đáp, đẩy gọng kính trên mũi, vẫy tay về phía người bồi bàn. “nhưng không khí trong cơ quan giờ như có độc. Làm ơn cho một ly vang đỏ,” ông ta nói với tay bồi bàn trẻ tuổi vừa trờ tới. “Không quan tâm, rượu gì cũng được.”
Nhưng tay bồi bàn mặc áo có thêu hình quân cờ nói ngay, có phần ức chế:
“Thưa ngài tôi sẽ gọi người phục vụ rượu đến ngay,” rồi rút lui.
“Anh thấy cái đồng hồ trên cửa lúc vừa bước vào không?” Waldegrave hỏi Strike, lại đẩy gọng kính lên mũi. “Họ nói là đồng hồ đứng luôn khi người phụ nữ đầu tiên bước vào đây năm 1984. Một câu chuyện đùa của riêng chỗ này. Rồi trên thực đơn, họ ghi là ‘bill of fare’, chứ không thèm dùng chữ ‘menu’, anh thấy đó, vì chữ ‘menu’ là tiếng Pháp mà. Ông cụ nhà tôi rất khoái những thứ nguyên gốc như vậy. Năm đó tôi vừa đậu Oxford nên ông ấy dẫn đến đây chiêu đãi. Ông cụ ghét thức ăn ngoại quốc lắm.”
Strike cảm nhận được sự căng thẳng nơi Waldegrave. Hắn đã quá quen với phản ứng đó ở người đối diện. Rõ bây giờ chẳng phải lúc để hỏi Waldegrave rằng có phải chính ông ta giúp Quine viết ra công thức vụ án mạng không.
“Hồi ở Oxford ông học gì?”
“Văn học Anh,” Waldegrave nói, thở dài. “Ông cụ nhà tôi coi vậy chứ không ưng ý; cụ muốn tôi học y khoa kia.”
Bàn tay phải của Waldegrave như đang chơi hợp âm rải trên khăn trải bàn.
“Ở văn phòng dạo này căng thẳng lắm sao?” Strike hỏi.
“Nói vậy cũng chẳng sai,” Waldegrave đáp, nhìn quanh quất tìm người phục vụ rượu. “Giờ thì bắt đầu thấm thía, vì ai cũng biết Owen bị giết ra sao. Người ta thi nhau xóa email như mấy thằng đần, giả vờ là mình chưa bao giờ xem cuốn sách, không biết nó kết thúc ra sao. Giờ thì hết tức cười rồi.”
“Vậy lúc trước tức cười lắm sao?” Strike hỏi.
“Ừ… à thì đúng vậy, lúc người ta còn nghĩ Owen chỉ giở trò hô biến. Ai cũng khoái xem kẻ mạnh bị mang ra làm trò, chẳng phải vậy sao? Cả Fancourt và Chard đều không được yêu mến lắm.”
Người phục vụ rượu đến gần, đưa danh sách cho Waldegrave.
“Tôi lấy một chai vậy nhé?” Waldegrave nói, nhìn từ trên xuống dưới. “Vụ này anh chi đúng không?”
“Đúng vậy,” Strike đáp, hơi run.
Waldegrave gọi một chai Château Lezongars, giá gần năm mươi bảng. Strike nghe tiếng ruột đứt từng khúc, mặc dù trên danh sách còn có chai gần hai trăm bảng.
“Vậy,” Waldegrave tiếp, có phần bạo dạn hơn sau khi người phục vụ rượu đã rút đi, “có manh mối gì chưa? Biết ai là thủ phạm không?”
“Chưa,” Strike đáp.
Cuộc đối thoại trầm một nhịp, căng thẳng khó chịu. Waldegrave đẩy gọng kính lên chiếc mũi nhễ nhại mồ hôi.
“Xin lỗi,” ông ta lẩm bẩm. “Là tôi chỉ tự vệ bỗ bã vậy thôi. Thực… tôi không tin được. Tôi không tin có chuyện như vậy.”
“Chẳng ai tin được cả,” Strike đáp.
Tự dưng mạnh bạo trở lại, Waldegrave tiếp:
“Tôi không thể từ bỏ cái ý nghĩ chính Owen là hung thủ. Chính anh ta dàn dựng hết.”
“Vậy sao?” Strike hỏi lại, tỉ mỉ quan sát ông biên tập.
“Tôi biết anh ấy không thể tự mà làm được, tôi biết chứ.” Bàn tay Waldegrave như đang khéo léo đánh bài luyện ngón trên cạnh bàn. “Thật là… thật là… như một màn kịch, cách anh ấy bị giết. Quá… quá kinh khủng. Và… chuyện kinh nhất là cuốn sách giờ lại có tiếng tăm vô đối. Trời, Owen vốn thích tiếng tăm mà. Owen đáng thương. Có lần anh ta kể với tôi chuyện thật chứ không phải đùa – kể hết sức nghiêm túc là anh ta hay nhờ bạn gái phỏng vấn mình. Nói là làm vậy để sắp xếp ý tưởng cho rõ ràng. Tôi có hỏi. ‘Vậy lấy cái gì làm micro?’, hỏi trêu vậy thôi, anh biết không. Anh biết anh chàng khốn nạn đó trả lời thế nào không? ‘Chủ yếu dùng bút bi. Hoặc có gì dùng nấy.’”
Waldegrave vừa thở hồng hộc vừa bật cười, nghe như đang nức nở.
“Khốn khổ khốn nạn,” ông ta nói. “Đúng là khốn nạn mà. Đến nỗi cuối cùng điên lên chẳng còn biết gì, nhỉ? Elizabeth Tassel chắc hài lòng lắm. Cứ đi theo khiêu khích anh ta nữa đi.” Anh chàng bồi bàn đầu tiên quay lại cầm theo sổ ghi chép.
“Anh ăn gì?” ông biên tập hỏi Strike, mắt cận dán sát tờ thực đơn.
“Món bò,” Strike đáp, nãy giờ hắn có đủ thời gian ngắm người ta cắt từng lát thịt bò trên mâm bạc đặt trên xe đẩy đến từng bàn. Mấy năm rồi hắn vẫn chưa ăn món bánh phồng Yorkshire. Lần cuối cùng hắn thưởng thức món này là lúc về St. Mawes thăm cậu mợ.
Waldegrave gọi món cá bơn, rồi ngoẹo cổ lần nữa xem người phục vụ rượu đã trở lại chưa. Khi nhác thấy bóng người cầm theo chai rượu, trông ông ta thư thái hẳn, dáng ngồi cũng thoải mái hơn. Bồi bàn rót rượu cho Waldegrave. Ông ta làm luôn vài hớp, rồi thở ra như thể vừa uống thuốc gì khẩn cấp lắm.
“Ông đang nói chuyện Elizabeth Tassel khiêu khích Quine,” Strike lên tiếng.
“Hả?” Waldegrave hỏi lại, khum bàn tay phải quanh tai.
Strike nhớ ra Waldegrave bị điếc một bên tai. Nhà hàng đông dần lên, ồn ào hơn. Hắn lặp lại câu hỏi một lần nữa, lớn giọng.
“À đúng rồi,” Waldegrave nói. “Có dính tới Fancourt. Owen với Elizabeth rất ưa ngồi tố Fancourt.”
“Tố gì kia?” Strike hỏi, Waldegrave tiếp tục nốc rượu.
“Fancourt nói xấu hai người đó đã nhiều năm rồi.”
Waldegrave đưa tay gãi vu vơ trên ngực áo nhăm nhúm, rồi uống tiếp. “Tội của Owen là dám viết bài nhại tiểu thuyết của vợ ông ta; còn tội của Liz là suốt ngày đi bênh Owen – nói thật với anh, chẳng ai trách Fancourt đã bỏ văn phòng của Liz Tassel cả. Bà đó là chằn tinh thứ thiệt. Văn phòng đại diện giờ chỉ còn mỗi hai tác giả. Nát quá rồi. Chắc tối nào cũng ngồi tính xem đã mất bao nhiêu tiền: mười lăm phần trăm tiền sách của Fancourt nhiều lắm chứ. Rồi tiệc tùng ra mắt sách, khai mạc phim phiếc… vậy mà Liz được gì… Còn mỗi Quine tự phỏng vấn mình với cây viết bi và món xúc xích cháy trong vườn nhà Dorcus Pengelly.”
“Sao ông biết xúc xích bị cháy?” Strike hỏi.
“Dorcus kể,” Waldegrave trả lời, vừa uống xong ly thứ nhất, đang rót tiếp ly thứ hai. “Bà ấy muốn biết tại sao Liz không đến dự sinh nhật nhà xuất bản. Khi tôi kể vụ Bombyx Mori, Dorcus cứ nói rằng Liz là người tử tế. Tử tế kia đấy. Hẳn chưa biết trong sách Owen có gì. Chưa bao giờ làm tổn thương ai – không nỡ đập chết một con ruồi… Ha!”
“Ông không đồng ý như vậy sao?”
“Đương nhiên đồng ý thế quái nào được. Tôi gặp nhiều người từng đặt chân đến văn phòng của Liz Tassel. Sau khi ở đó xong thì hết cả hồn vía, nói năng như nạn nhân bị bắt cóc tống tiền. Liz Tassel ưa bắt nạt. Nóng nảy kinh hoàng.”
“Vậy ông nghĩ bà ấy chỉ đường cho Quine viết cuốn sách đó hay sao?”
“Thì không hẳn là vậy,” Waldegrave đáp. “Nhưng ở đây ta có một tay nhà văn ảo tưởng, luôn tin rằng sách mình ế chỉ vì người khác ganh tị, không làm tròn việc, rồi lại chung một chỗ với Liz, người lúc nào cũng giận dữ, cay nghiệt, mở mồm ra là kể tội Fancourt, thì có ngạc nhiên gì khi Owen sôi máu đến loạn trí như vậy?
“Bà ta còn không thèm đọc cuốn sách tới nơi tới chốn. Nếu Owen còn sống, tôi phải nói thật đáng đời bà ấy lắm. Cái anh nhà văn khốn nạn ngớ ngẩn đó đâu chỉ có ra tay với Fancourt, đúng không? Còn đá đểu cả Liz nữa, hà hà! Còn cả Daniel, cả tôi, tất tần tật. Tất tần tật.”
Đúng kiểu cách quen thuộc của những kẻ nghiện rượu mà Strike từng biết, Jerry Waldegrave đã say chỉ sau hai ly rượu vang. Cử động của ông ta tự dưng lóng ngóng hẳn, điệu bộ thì màu mè hơn.
“Vậy ông nghĩ Elizabeth Tassel khích Quine tấn công Fancourt hay sao?”
“Không mảy may nghi ngờ,” Waldegrave đáp. “Chắc như đinh đóng cột.”
“Nhưng khi tôi gặp Elizabeth Tassel bà ta nói rằng những gì Quine viết về Fancourt là không đúng sự thật,” Strike nói.
“Hử?” Waldegrave hỏi lại, bàn tay khum quanh tai.
“Bà ấy kể với tôi,” Strike lớn giọng, “rằng những gì Quine viết trong Bombyx Mori về Fancourt đều là dối trá. Rằng Fancourt không hề viết bài nhại khiến bà vợ tự tử – bài đó do Quine viết.”
“Tôi không nói chuyện đó,” Waldegrave nói, lắc đầu như thể Strike là cái thứ chậm tiêu. “Tôi không có ý… mà thôi quên đi. Quên phứt đi.”
Waldegrave đã uống được hơn nửa chai; rượu vào lời cũng bắt đầu ra. Strike gượm lại, biết rằng lúc này mà khích thì chỉ khiến tay sâu rượu càng bướng bỉnh hơn. Tốt nhất là cứ để ông ta cà kê, ưa nói gì thì nói, chỉ cần nhẹ nhàng lèo lái.
“Owen thích tôi,” Waldegrave kể. “Đúng vậy. Tôi biết cách trị Owen. Chỉ cần bơm anh ta một chút thì muốn gì anh ta cũng sẽ làm. Khen khoảng nửa tiếng trước khi đề nghị anh ta sửa lại một chỗ trong bản thảo. Thêm nửa tiếng nữa nếu muốn sửa thêm một chỗ nữa. Chỉ có một cách duy nhất đó thôi.
“Anh ta không muốn làm tổn thương tôi đâu. Tại khi đó anh ta đã loạn trí rồi, đúng là ngớ ngẩn khốn nạn. Owen muốn lên tivi. Nghĩ ai cũng âm mưu hại mình. Mà không nhận ra mình đang đùa với lửa. Tâm thần thật chứ chẳng chơi.”
Waldegrave dựa phịch ra sau, cộp luôn vào đầu một bà to béo ăn vận điệu đà ngồi quay lưng lại. “Xin lỗi! Xin lỗi!”
Khi bà ta ngoái đầu nhìn, Waldegrave xóc người lại trên ghế, khiến dao nĩa trên khăn bàn xô vào nhau loảng xoảng.
“Vậy thì,” Strike hỏi tiếp, “nhân vật sát thủ Cutter có ý nghĩa gì?”
“Hử?” Waldegrave hỏi.
Lần này Strike chắc chắn rằng điệu bộ khum tay kia chỉ là làm màu.
“Sát thủ Cutter…”
“Sát thủ: chém giết, cắt tỉa, biên tập – rõ quá còn gì,” Waldegrave đáp.
“Còn cái bị vấy máu và người lùn mà ông cố dìm chết?”
“Có tính biểu tượng,” Waldegrave nói, vung tay trong không khí, sém tý nữa đánh đổ ly rượu. “Vài ý tưởng của anh ta từng bị tôi khử, những dòng văn chương tâm huyết bị tôi cắt sạch. Anh ta tự ái.”
Strike đã quá quen với những câu trả lời được dợt trước, hắn thấy câu trả lời của Waldegrave quá nhẹ nhàng, quá trôi chảy, quá mau mắn.
“Chỉ có vậy thôi sao?”
“Thì,” Waldegrave đáp, bật cười. “Tôi chưa từng dìm chết một người lùn nào cả, nếu anh có ý nghi ngờ.”
Những kẻ say rượu luôn rất khó phỏng vấn. Hồi còn ở SIB, các nghi can hay nhân chứng say xỉn cũng khá hiếm gặp. Strike còn nhớ tay thiếu tá nghiện rượu có con gái mười hai tuổi ở Đức. Ở trường con bé khai là mình từng bị lạm dụng. Khi Strike vừa đến nhà, tay thiếu tá chưa gì đã cầm vỏ chai vỡ, toan giáng cho hắn một cú. Strike đã phải vật anh ta xuống. Nhưng trong thế giới của thường dân nơi đây, với người phục vụ rượu vẫn còn lảng vảng qua lại, bất cứ lúc nào ông biên tập đang ngà ngà, có vẻ hiền lành kia cũng có thể đứng dậy mà bước ra luôn, hắn đâu thể tùy tiện. Hắn chỉ mong làm sao quay lại chủ đề sát thủ Cutter, và giữ Waldegrave ngồi yên đó mà nói tiếp. Chiếc xe đẩy tiến đến, đúng lệ bộ. Người ta vừa long trọng cắt thịt từ khúc sườn bò cho Strike vừa dọn món cá bơn cho Waldegrave.
Ba tháng tới tuyệt đối không đi taxi, Strike nghiêm khắc tự nhắc mình, vừa nuốt nước bọt khi người ta chất lên đĩa hắn bánh phồng Yorkshire, rồi khoai tây và củ cần. Chiếc xe lại được đẩy đi. Waldegrave giờ đây đã uống được hai phần ba chai rượu. Ông ta nhìn con cá, như thể không chắc làm sao nó lại xuất hiện trước mặt mình rồi nhón tay bốc một củ khoai nhỏ cho vào miệng.
“Quine có nói chuyện đang viết gì với ông trước khi đưa bản thảo không?” Strike hỏi.
“Không bao giờ,” Waldegrave nói. “Anh ta chỉ nói rằng trong Bombyx Mori, con tằm là phép ẩn dụ chỉ nhà văn, ý là nhà văn cũng phải trải qua bao đau đớn mới có được tác phẩm hay. Chỉ có vậy thôi.”
“Ông ta không bao giờ hỏi xin lời khuyên gì sao?”
“Không có đâu, Owen lúc nào chẳng nghĩ mình biết tuốt.”
“Nhà văn nào cũng vậy sao?”
“Cũng tùy,” Waldegrave nói. “Nhưng Owen luôn thích ra vẻ bí hiểm. Anh ta thích cuối cùng mới tiết lộ. Owen vốn ưa màu mè kịch tính mà.”
“Cảnh sát sẽ hỏi ông đã đi những đâu sau khi nhận được bản thảo,” Strike thản nhiên tiếp.
“À, hỏi xong hết rồi,” Waldegrave thờ ơ đáp. Ông ta lóng ngóng tách xương cá bơn mãi không được. Khi nãy Waldegrave đã mạnh mồm dặn nhà hàng đừng rút xương hộ mình. “Nhận bản thảo hôm thứ Sáu, mãi đến thứ Bảy mới đọc…”
“Tuần đó đáng ra ông đi chơi xa phải không?”
“Paris,” Waldegrave đáp. “Kỷ niệm ngày cưới. Nhưng cuối cùng chẳng đi đâu cả.”
“Có chuyện gì sao?”
Waldegrave trút hết rượu ra ly. Vài giọt rượu thẫm màu rơi xuống khăn trải bàn trắng, loang ra.
“Trên đường ra sân bay thì cãi nhau, cãi kinh lắm. Vậy là quay xe về nhà.”
“Gay nhỉ,” Strike nói.
“Cũng lục đục đã bao năm nay rồi,” Waldegrave nói, bỏ cuộc không thèm gỡ xương cá nữa, quăng dao nĩa xuống bàn đánh rầm một cái, khiến thực khách chung quanh phải quay lại nhìn. “Jojo cũng lớn rồi. Chẳng còn nghĩa lý gì nữa. Chắc đường ai nấy đi thôi.”
“Tôi rất tiếc,” Strike nói.
Waldegrave buồn bã nhún vai, rồi lại nốc rượu. Tròng kính gọng sừng của ông ta đầy dấu vân tay, cổ áo sơ mi dơ dáy, nhăn nhúm. Từ kinh nghiệm của mình, Strike đoán ông ta đã mặc nguyên bộ đồ đó mà đi ngủ.
“Sau khi cãi nhau ông đi thẳng về nhà hay sao?”
“Nhà rộng mà. Nếu không muốn thì cũng không phải thấy mặt nhau.”
Những giọt rượu loang ra, tựa những bông hoa li ti đỏ thắm trên mặt khăn trải bàn trắng như tuyết.
“Mật hiệu đen… tự dưng tôi nhớ tới chi tiết đó,” Waldegrave tiếp, “Trong truyện Đảo giấu vàng ấy, anh biết không… mật hiệu đen ấy. Giờ ai từng đọc cuốn sách đều trở nên đáng ngờ. Người ta nhìn quanh quất. Tất cả những ai từng biết kết cục của cuốn sách đều trở thành nghi can. Cảnh sát đến văn phòng làm việc của tôi, người ta cứ nhìn chằm chằm…
“Tôi đọc bản thảo hôm Chủ Nhật đó,” ông ta nói, gà gật quay lại câu hỏi của Strike, “rồi tôi nói thẳng với Liz Tassel là tôi nghĩ gì về bà ấy – rồi đâu lại vào đó. Owen không trả lời điện thoại. Tôi cứ tưởng anh ta đang suy sụp – nhưng lúc đó tôi cũng đủ phiền chuyện riêng rồi. Daniel Chard cứ nhảy chồm chồm lên…
“Dẹp phứt lão. Từ chức. Đủ rồi. Vu khống nọ kia. Dẹp hết. Còn mắng sa sả vào mặt tôi ngay giữa cơ quan nữa. Quá đủ rồi.”
“Vu khống?” Strike hỏi.
Kỹ thuật phỏng vấn của hắn lúc này không khác mấy với thao tác khéo léo trong trò chơi cờ đá bóng Subbuteo; đối tượng phỏng vấn nghiêng ngả, được định hướng bằng những thao tác hết sức nhẹ nhàng chính xác. (Hồi những năm bảy mươi Strike có một bộ Subbuteo đội Arsenal; hắn thường chơi với bộ cờ tự sơn theo đồng phục đội Plymouth Argyles của Dave Polworth, hai thằng khi đó nằm lê la trên tấm thảm trước lò sưởi của mẹ Dave.)
“Dan cho là tôi tọc mạch chuyện ông ấy với Owen. Ngớ ngẩn thôi rồi. Cứ nghĩ như thiên hạ chẳng ai biết… người ta đã đàm tiếu bao nhiêu năm nay. Cần gì tôi phải đi nói với Owen. Ai chả biết.”
“Rằng Dan đồng tính?”
“Đồng tính hay ức chế… ai thèm quan tâm. Không chắc Dan có biết mình đồng tính không nữa. Nhưng ông ấy thích trai đẹp, thích vẽ tranh khỏa thân mấy tay đó. Ai chả biết.”
“Thế ông ấy có mời ông làm mẫu không?” Strike hỏi.
“Lạy Chúa, không có chuyện đó.” Waldegrave đáp. “Joe North kể với tôi, lâu lắc rồi. A!”
Ông ta kịp bắt được ánh mắt của người phục vụ rượu.
“Thêm một ly như vầy nữa, làm ơn.”
Strike thấy nhẹ cả người vì ông ta không gọi luôn cả chai.
“Xin lỗi ngài, loại đó chúng tôi không bán theo…”
“Vậy thì loại gì cũng được. Miễn vang đỏ. Gì cũng được.”
“Lâu lắm rồi, vụ đó,” Waldegrave tiếp tục câu chuyện. “Dan muốn Joe ngồi mẫu cho ông ấy; Joe bảo Dan đi chết đi. Xưa giờ ai chả biết.”
Ông biên tập dựa người ra sau, lại đụng vào bà béo sau lưng, vô phước đang ăn đến món xúp. Strike thấy người cùng bàn với bà ta nổi giận, gọi một người bồi bàn đang đi ngang đến để phàn nàn. Người bồi bàn cúi xuống chỗ Waldegrave, giọng nhún nhường nhưng kiên định:
“Phiền ngài kéo ghế lại được không? Quý bà ngồi sau ngài…”
“Xin lỗi, xin lỗi.”
Waldegrave xịch lại gần với Strike hơn, đặt khuỷu tay xuống bàn, vuốt mớ tóc lòa xòa khỏi mắt rồi lớn giọng:
“Cóc biết cái mẹ gì mà làm như mình ngon lắm.”
“Ai kia?” Strike hỏi, vừa làm sạch đĩa, lâu rồi mới được ăn một bữa như thế, hắn thấy tiếc hùi hụi.
“Dan chứ ai. Thừa kế công ty, như được dâng tận miệng… cả đời sung túc… cứ để ông ta về quê sống rồi vẽ chân dung người hầu kẻ hạ nếu ông ta muốn thế… chán lắm rồi. Bắt đầu làm công ty của riêng… của riêng tôi thôi.”
Điện thoại di động của Waldegrave đổ chuông. Mất một hồi lâu ông ta mới tìm ra điện thoại. Ông ta nhướng mắt qua kính, nhìn số gọi rồi mới bấm máy trả lời.
“Gì đó Jojo?”
Mặc dù lúc đó nhà hàng rất đông đúc, Strike vẫn nghe tiếng đầu dây bên kia: có tiếng thét the thé inh tai. Waldegrave trông hoảng hốt.
“Jojo? Con có…?”
Rồi gương mặt phục phịch, hiền lành của ông biên tập căng ra đến khó tin. Gân cổ nổi rần rần, ông ta mở miệng gào rống, trông xấu xí.
“Khốn nạn!” ông ta nói, giọng vang khắp những bàn chung quanh. Năm chục cái đầu cùng giật lên một lúc, người ta bỏ dở câu chuyện. “Đừng có mà lấy máy Jojo gọi cho tôi! Không, cô say mẹ nó rồi – cô nghe tôi nói gì không – Tôi uống rượu là vì tôi lấy phải cô, khốn nạn lắm, cô rõ chưa!”
Bà béo ngồi sau Waldegrave nhìn quanh, đỏ mặt tía tai. Đám bồi bàn liếc nhau; một tay sững lại khi đang gắp một chiếc bánh phồng Yorkshire vào đĩa cho vị doanh nhân người Nhật Bản. Hẳn là câu lạc bộ quý ông nền nã này từng chứng kiến nhiều vụ say xỉn, và hẳn lần nào cũng sốc, nhất là giữa những tấm ván gỗ sẫm màu, đèn chùm thủy tinh, thực đơn đúng mực – mọi thứ đều đặc chất Anh quốc, điềm tĩnh, chắc chắn.
“Vậy thì, khốn thật, là do lỗi của ai?” Waldegrave hét lên trên điện thoại.
Ông ta loạng choạng đứng dậy, lại va tiếp vào bà hàng xóm phía sau, nhưng lần này bạn đồng hành của bà ta không hề lên tiếng phản kháng. Cả nhà hàng lặng phắc. Waldegrave liêu xiêu bước ra ngoài, sau gần chai rưỡi rượu, vừa đi vừa chửi thề vào điện thoại. Còn Strike ngồi kẹt ở bàn, thấy hơi tức cười vì nhớ lại cảm giác khinh khỉnh trước mấy tay tửu lượng kém khi còn ở câu lạc bộ quân nhân ngày xưa.
“Làm ơn tính tiền,” Strike nói với tay bồi bàn đứng gần nhất, vẫn còn há hốc miệng. Hắn thấy hơi thất vọng vì vẫn chưa kịp ăn thử món bánh hấp nho khô spotted dick mà hắn đã kịp thấy trên thực đơn. Nhưng hắn phải đuổi theo Waldegrave ngay.
Khi thực khách trong nhà hàng vẫn còn lầm rầm trò chuyện và dõi mắt kín đáo theo hắn, Strike trả tiền, đứng dậy, tì người lên gậy chống, đuổi theo bước đi xiên xẹo của Waldegrave. Từ vẻ mặt giận dữ của người bồi bàn trưởng và tiếng Waldegrave gào thét bên ngoài cửa, Strike đoán rằng hẳn người ta đã phải mất công ngọt nhạt với ông biên tập trước khi tống được ông ra đường.
Hắn tìm thấy ông biên tập đang đứng dựa người vào bức tường lạnh lẽo bên phía trái cửa. Quanh hai người tuyết rơi dày; vỉa hè trở nên xôm xốp, người qua đường khăn mũ kín mít. Không còn cảnh nền trang trọng, chắc chắn, Waldegrave trông cũng không còn giống như một học giả luộm thuộm nữa. Say xỉn, dơ dáy, nhàu nhĩ, liên tục chửi thề vào cái điện thoại lọt thỏm trong bàn tay to, trông ông ta lúc này chẳng khác gì một kẻ loạn trí.
“…khốn nạn, không phải lỗi của tôi, cô là thứ đĩ thõa dốt nát! Tôi có viết cái của nợ khốn kiếp đó không hả? Tôi viết hả?… vậy cô đi mà nói với con bé đi, đúng không? Nếu cô không nói, tôi sẽ nói… Đừng có mà dọa tôi, đồ đĩ khốn xấu xí… nếu cô đừng có hở tý là dạng chân ra… cô nghe tôi không, khốn nạn…” Waldegrave nhìn thấy Strike. Ông ta đứng đó, há hốc trong vài giây rồi cắt cuộc gọi. Điện thoại trượt giữa những ngón tay lóng ngóng, rơi xuống vỉa hè tuyết phủ.
“Chết tiệt,” Jerry Waldegrave lẩm bẩm.
Con sói đã trở lại thành con cừu. Ông ta đưa tay xuống chụp điện thoại trong mớ băng tuyết dưới chân, cặp kính rơi ra. Strike nhặt lên.
“Cảm ơn… Cảm ơn. Xin lỗi… Xin lỗi…”
Strike thấy nước mắt chảy trên đôi má phính của Waldegrave khi ông ta mang kính trở lại. Nhét chiếc điện thoại nứt mặt vào túi, ông ta nhìn tay thám tử, mặt mày ủ dột.
“Làm nát bét cả cuộc đời khốn nạn của tôi,” ông ta nói. “Cuốn sách đó. Vậy mà tôi cứ tưởng Owen… vẫn còn biết coi trọng một điều. Tình cha con. Một thứ đó thôi…”
Thêm một cái xua tay chán đời, Waldegrave quay người bước đi, loạng choạng liêu xiêu, say như hũ chìm. Tay thám tử áng chừng hẳn trước đó ông ta cũng đã uống ít nhất một chai. Chẳng ích gì mà đi theo ông ta nữa.
Ngắm Waldegrave biến mất vào màn tuyết, ngang qua những người đi mua sắm Giáng Sinh đang chen chúc trên vỉa hè đầy tuyết, Strike nhớ đến một bàn tay chụp lấy cánh tay khác, một giọng nói nghiêm nghị, rồi một cô gái giận dữ. “Mámi cũng chạy thẳng tới kìa, sao không chụp má-mi lại?”
Strike lật cổ áo lên. Giờ đây hắn đã hiểu ra: người lùn trong cái bị vấy máu, cặp sừng dưới mũ sát thủ Cutter, và độc ác nhất: vụ cố dìm chết đuối.