Công Lý Thảo Nguyên

27 …ngồi trông Saraa trong khi nghĩ tới bố cô.



“Ông ấy vẫn chưa về sao?” giọng nói của Saraa cất lên hỏi từ sau tấm bình phong.

“Chưa,” Solongo trả lời, cô lúc này đang chuẩn bị thứ thuốc mỡ bôi cho cô gái.

“Chuyện này không làm cô lo sao?”

“Không,” nữ bác sĩ pháp y nói dối. “Cháu biết đấy, đây là nhà cô chứ không phải nhà bố cháu. Ông ấy chỉ thỉnh thoảng ghé qua đây thôi, và chẳng bao giờ báo trước.”

“Cô đã đến nhà ông ấy kiểm tra chưa?”

“Cô chẳng biết nơi bố cháu sống ở đâu. Thậm chỉ cô cũng không biết liệu có ai biết hay không. Có thể là Oyun. Cô ấy hẳn từng phải ghé qua đón ông ấy hay đưa ông ấy về trước hay sau một cuộc điều tra.”

“Chúng ta có thể hỏi chị ấy được không?”

“Cô đã hỏi rồi. Cô ấy không biết bố cháu đi đâu. Cô ấy nghĩ là Yeruldelgger muốn nói chuyện phải quấy với thanh tra Chuluum. Cô tin cô ấy sẽ tìm cách liên lạc với bố cháu. Nhưng đừng lo cho ông ấy. Bố cháu là nhân vật không thể bị hủy diệt!”

“Cô nói thế vì cô yêu ông ấy.”

“Phải, nhưng nếu cả cháu cũng yêu quý ông ấy một chút, bố cháu sẽ còn mạnh mẽ hơn nhiều.”

Cô đi vào sau bình phong. Saraa vẫn ở trần, nằm ngửa duỗi dài, hai cánh tay và chân hơi choãi ra. Nhựa cây và mỡ gấu đã làm nên những điều kỳ diệu. Các vết bỏng của cô gái đã chuyển sang màu hồng của da non. Nhưng Solongo đoán biết qua ánh mắt Saraa là cô bé đang rất đau và kiên cường chờ đợi sự êm dịu và nhẹ nhõm mà những chăm sóc của cô đem lại.

“Saraa, cháu đã thực sự qua đêm với gã Quốc xã đó à?” cô hỏi trong lúc nhẹ nhàng thoa thuốc lên cơ thể Saraa.

“Không,” cô gái trẻ thú nhận.

Saraa không dám nhìn Solongo, mắt chăm chăm nhìn lên khoảng mở trên nóc căn lều, qua đó người ta có thể thấy được các vì sao. Ký ức làm cô gái ngập chìm vào một buổi chiều nằm nghỉ trong căn lều của ông cô, ở Terelj. Yeruldelgger đang nằm dài dưới nền đất, còn cô bé nằm trên ngực ông, cũng nằm ngửa, và hai bố con cùng nhìn lên nóc lều, dõi theo những đám mây trắng xuất hiện rồi biến mất, được gió thổi qua khoảng trời xanh hình tròn. Hai bố con thi xem ai là người đầu tiên đưa ra được hình dáng và đặt được tên. ‘Chuột chũi’, ‘dê’, ‘táo’. Rồi đến một lúc Yeruldelgger đã hô lớn: ‘Mẹ!’ và Saraa đã cười tới mức Uyunga gia nhập cùng hai bố con, nằm dài ra bên cạnh họ, và cũng cười phá lên khi đặt tên cho các đám mây. Và hình dạng của chúng càng kỳ dị, Yeruldelgger lại càng hô lớn: ‘Saraa’, và họ lại càng cười lăn ra.

“Không,” cô bé vị thành niên nhắc lại. “Cháu bắt đầu uống rượu và hút thuốc cùng bọn họ, rồi ai đó mà họ đang đợi tới tìm. Họ quay trở lại vào lúc rạng sáng, nhưng cháu đã say mềm, còn bọn họ thì quá kích động để bận tâm tới cháu. Gã bị các cô bắt vừa trước đó chỉ tới bảo cháu là vì lợi ích của mình, cháu nên xác nhận đã qua đêm với Adolf. Dù thế nào đi nữa, cháu đã say mê man đến mức điều đó cũng rất có thể là thật.”

“Hắn đã đe dọa cháu à?” Solongo hỏi.

“Không, hắn không cần…”

“Vậy tại sao cháu lại làm thế?”

“Hắn nói việc đó có thể làm cuộc sống của bố cháu nát bét.”

“Hắn đã nhắc tới Yeruldelgger sao?” Solongo ngạc nhiên, và đột nhiên trở nên chăm chú hơn.

“Vâng. Hắn đã chờ sẵn để bị bắt. Cháu nghe hắn nói với những gã khác là không phải lo, chuyện này là một phần trong kế hoạch.”

“Kế hoạch ư? Kế hoạch nào?”

“Cháu không biết, Solongo. Lúc đó cháu say mèm, cháu kể với có rồi còn gì. Nhưng có một lúc hắn thấy cháu tỉnh lại khỏi cơn say, thế là hắn quay sang cháu và nói là cháu không cần phải sợ bố cháu. Hắn nói bọn hắn được những người còn mạnh hơn ông ấy che chở.”

Solongo quan sát Saraa, đôi mắt ướt nhòe của cô gái không muốn nhìn cô, vẫn đăm đăm ngước lên bầu trời đầy sao qua khoảng mở trên nóc lều. Cô đang dịu dàng vuốt ve vầng trán được các vết bỏng chừa ra của cô gái thì điện thoại di động rung lên báo có tin nhắn.

“Không có ai mạnh hơn Yeruldelgger cả,” cô vừa nói vừa đứng dậy. “Giờ cháu ngủ đi, cô phải ra trả lời.”

Cô nhẹ nhàng hôn lên trán Saraa, chỉnh lại tấm bình phong, rồi tới chỗ bàn nhỏ nơi cô thích ngồi làm việc ban đêm. Bản thân cô cũng thầm hy vọng người nhắn tin là Yeruldelgger, nhưng tin nhắn lại đến từ Đức. Một bức thư điện tử không có nội dung, với độc một từ ‘trekking’ làm tiêu đề, và có một tệp đính kèm. Solongo chuyển thư điện tử sang máy tính của mình rồi mở tệp gửi kèm ra trên màn hình lớn của chiếc Mac. Đó là báo cáo mô hình hóa và các kết quả phân tích mảnh kính vỡ được tìm thấy găm vào bàn đạp chiếc xe ba bánh mà nữ bác sĩ pháp y đã chuyển tới cho ‘đối tác’ người Đức của mình.

Mảnh vỡ thuộc về một cụm đèn pha được sản xuất tại Trung Quốc, trong một nhà máy ở Củng Thự, phục vụ Tập đoàn ô tô Quốc tế Vũ Di, một nhà máy lắp ráp ở Chiết Giang. Nhà máy này sản xuất các sản phẩm xe cho thương hiệu Chinwa của Hàn Quốc. Loại đèn pha đã được xác định là một trong hai đèn pha nhỏ phía trước của loại mô tô bốn bánh trang bị động cơ hai trăm năm mươi phân khối được nhà sản xuất đặt tên là ZHSTZSO-KS đời 2007.

Solongo bấm vào một đường dẫn và cho hiển thị hình ảnh chiếc mô tô bốn bánh. Chiếc xe có kiểu dáng thanh thoát đầy chất vị lai chủ nghĩa, với các lò xo giảm xóc để lộ ra ngoài, ba đồng hồ hình trụ tròn kiểu cổ gắn ở trước tay lái và một cánh gió có phần tự phụ đằng sau. Nhưng thứ Solongo không thể rời mắt là cái thứ kiểu bộ chống va đập làm bằng những thanh thép đen tạo thành thứ giống như mũi xe ở đằng trước, và ở mỗi bên đèn pha trung tâm lớn gắn vào thân xe có hai đèn pha nhỏ hình thoi thuôn dài về phía trung tâm giống như ánh mắt hung ác của một nhân vật trong truyện tranh manga. Ra đây là thứ đã đâm nát đứa trẻ vui tươi trên chiếc xe đạp ba bánh màu hồng. Chiếc mô tô gầm rú đột nhiên từ đâu xuất hiện đã lao hết tốc lực vào thân hình tội nghiệp nhỏ bé. Tất cả những chiếc xương gãy của cô bé đã cho thấy không còn gì để ngờ vực về chuyện đó. Và cái đầu với mái tóc vàng của cô bé hẳn đã làm vỡ một trong các đèn pha trong cú va đập. Nếu nhìn kỹ ảnh chụp chiếc mô tô hầm hố, có lẽ đó là tổn thất duy nhất nó phải chịu…

Solongo ngẫm nghĩ hồi lâu về bức ảnh và những câu hỏi nảy ra trong đầu cô. Hiện tại có lẽ họ đã biết cô bé bị giết như thế nào và bởi cái gì. Còn phải tìm hiểu xem bởi ai. Mặt khác, giả thiết tai nạn trở nên khả dĩ với bằng chứng về cú va chạm. Song điều đó không cho phép đưa ra bất cứ lời giải thích nào về lý do vì sao cô bé lại bị chôn khi còn sống. Cũng như lý do vì sao đã không ai nói gì về vụ việc. Một công chúa tóc vàng bé bỏng giữa thảo nguyên trên một chiếc xe đạp ba bánh màu hồng, rồi một chiếc mô tô bốn bánh rồ máy lao tới nhanh như mũi tên, một chuyện như thế hẳn sẽ gây chú ý tại Mông Cổ. Nếu tai nạn xảy ra ở ngay gần nơi Yeruldelgger khai quật thi thể cô bé, thì chắc chắn phải có hàng chục người dân du mục biết chuyện, và linh hồn cô bé không đời nào bị bỏ mặc lại với những cơn gió thảo nguyên. Người ta sẽ bí mật chăm lo cho cô bé. Lần lượt.

Solongo dần dần bị thuyết phục rằng thảm kịch không xảy ra tại nơi đó. Cô bé đã bị chôn tại đó, khi còn sống, đầy lén lút, nhưng tai nạn đã xảy ra ở chỗ khác. Ít nhất thì giờ đây cô đã có trong tay một manh mối vật chất. Một chiếc xe cụ thể sẽ để lại dấu vết về việc nó đã từng qua đó. Không nhất thiết là dấu vết vật chất khi năm năm đã trôi qua, nhưng đầu sao cũng là những dấu vết hữu ích. Những ký ức, nhân chứng, ngày tháng, và có thể là những bức ảnh. Và cả những manh mối về quản lý, chẳng hạn như việc qua lại biên giới, vì chắc chắn chiếc mô tô này đã được nhập khẩu. Chắc không thể có đến hàng trăm chiếc mô tô bốn bánh Hàn Quốc loại ZHSTZSO-KS đời 2007 tại đất nước này. Chưa kể tới việc vụ tai nạn đã xảy ra từ năm năm trước, như vậy lúc đó chiếc mô tô này còn là kiểu mới tinh trong năm.

Solongo tin tưởng trở lại và quyết định gửi một bản copy của bức thư điện tử tới Yeruldelgger. Dù đang ở đâu, hẳn ông cũng biết cách tìm ra được thứ gì đó từ đầu mối này. Cô cũng gửi một bản cho Oyun rồi chuẩn bị pha một ấm trà bơ muối nóng. Cô không thấy buồn ngủ. Solongo đã quyết định ngồi trông Saraa trong khi nghĩ tới bố cô.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.