Một vụ án mạng nữa.
Và không nghi ngờ gì, Năm Hai Hai chính là thủ phạm.
Rhyme và Sellitto đang có trong tay danh sách nóng cập nhật bất cứ vụ án mạng nào xảy ra tại thành phố New York. Khi nhận được cuộc gọi từ Văn phòng Thám tử, họ chỉ cần vài câu hỏi để tìm ra nạn nhân, một nhân viên quản trang, đã bị sát hại ngay cạnh mộ vợ con một nhân viên của SSD, nhiều khả năng thủ phạm là một người đàn ông đã bám theo người nhân viên tới đó.
Quá nhiều để có thể coi là trùng hợp, đương nhiên.
Người nhân viên của công ty, một người làm nhiệm vụ bảo trì, không nằm trong diện đối tượng tình nghi. Anh ta đang trò chuyện với một người đến viếng mộ khác khi họ nghe thấy tiếng kêu của người quản trang.
“Đúng hắn rồi,” Rhyme gật đầu. “Ổn chứ, Pulaski?”
“Vâng, thưa ông.”
“Hãy gọi cho ai đó tại SSD. Tìm hiểu xem những người có tên trong danh sách nghi vấn đã ở đâu trong hai giờ vừa qua.”
“Được thôi.” Thêm một nụ cười cam chịu nữa. Rõ ràng cậu ta không khoái nơi đó cho lắm.
“Và, Sachs…”
“Em sẽ đi kiểm tra hiện trường tại nghĩa trang.” Cô đã gần ra tới cửa.
Sau khi Sachs và Pulaski đi khỏi, Rhyme gọi cho Rodney Szamek tại Đơn vị Tội phạm máy tính Sở Cảnh sát New York. Anh thông tin cho anh ta về vụ án mạng vừa diễn ra và nói: “Tôi đoán hắn đang nóng lòng muốn có thông tin về những gì chúng ta đã biết được. Đã có gì từ chiếc bẫy chưa?”
“Không có gì từ bên ngoài Sở. Chỉ có một cuộc tìm kiếm từ văn phòng của ông Đại úy Malloy ở Big Building. Xem qua các file trong hai mươi phút rồi đăng xuất.”
Malloy? Rhyme cười thầm. Mặc dù Sellitto đã cập nhật mọi tiến triển cho viên đại úy đúng như chỉ thị, rõ ràng ông ta vẫn không thể rũ bỏ được bản chất một nhân viên điều tra trong mình và cố tự tập hợp nhiều thông tin nhất có thể – có lẽ để đưa ra các đề xuất. Rhyme đáng ra nên gọi báo cho ông ta biết về cái bẫy, cũng như việc các file dữ liệu mồi nhử không chứa đựng bất cứ thông tin hữu ích nào.
Anh chàng chuyên gia máy tính nói: “Tôi cho rằng không có gì đáng chú ý, vì vậy tôi không gọi cho anh.”
“Không sao.” Rhyme ngừng liên lạc. Anh nhìn chăm chăm hồi lâu vào những tấm bảng ghi danh sách các bằng chứng. “Lon, toi có một ý tưởng.”
“Gì vậy?” Sellitto hỏi.
“Chàng trai của chúng ta luôn đi trước chúng ta một bước. Chúng ta tiếp cận vụ này như thể hắn giống như những tên tội phạm khác. Nhưng không phải như thế.”
Người biết tất cả…
“Tôi muốn thử cách khác. Tôi cần trợ giúp.”
“Từ ai?”
“Trong thành phố.”
“Khu vực hơi rộng đấy. Chính xác là ở đâu.”
“Malloy. Và ai đó ở Tòa thị chính.”
“Tòa thị chính? Để làm quái gì vậy? Điều gì làm anh nghĩ họ sẽ bận tâm nhấc máy khi chúng ta gọi đến?”
“Bởi vì họ phải làm thế?’
“Có lý do nào sao?”
“Anh cần thuyết phục bọn họ, Lon. Chúng ta cần vượt lên trước gã này. Anh có thể làm được điều đó.”
“Chính xác là làm gì?”
“Tôi nghĩ chúng ta cần một chuyên gia.”
“Loại nào?”
“Chuyên gia máy tính.”
“Chúng ta có Rodney.”
“Cậu ta không hẳn là điều tôi nghĩ tới trong đầu.”
– – * – –
Nạn nhân đã bị đâm bằng dao đến chết.
Bị đâm một cách rất chính xác, đúng thế, nhưng cũng thật vô lý, vào ngực, rồi sau đó bị cắt cổ một cách tàn bạo trong cơn tức giận, Sachs thầm đánh giá. -Đây là một đặc điểm nữa của Năm Hai Hai. Cô đã trông thấy những vết thương như thế tại các hiện trường khác, những nhát đâm cắt dữ dội và không mấy trúng đích thường chứng tỏ kẻ sát nhân đã bị mất khả năng kiểm soát bản thân.
Điều đó rất tốt cho các nhà điều tra, những tên tội phạm dễ bị kích thích cũng là những tên tội phạm bất cẩn. Chúng thường hớ hênh và để lại nhiều bằng chứng hơn những tên tội phạm làm chủ được bản thân khi gây án. Nhưng, như Amelia Sachs đã học được từ những ngày còn tuần tra trên đường phố, điểm bất lợi là chúng cũng nguy hiểm hơn nhiều. Những kẻ điên rồ và nguy hiểm như Năm Hai Hai không hề phân biệt giữa các nạn nhân đã dự tính trước với những người vô tình qua đường hay cảnh sát.
Bất cứ đe dọa hay cảm giác không thoải mái nào – cần được triệt tiêu ngay lập tức và dứt khoát. Và mọi logic cứ việc cuốn xéo xuống địa ngục.
Trong ánh sáng chói chang của những ngọn đèn halogen nhóm điều tra hiện trường đã bật lên làm cả khu mộ chìm trong một thứ ánh sáng kỳ quái, Sachs xem xét thi thể nạn nhân đang nằm ngửa, hai chân dang rộng ở đúng vị trí cuối cùng trong cơn giãy chết. Một vũng máu chảy dài từ xác chết lan rộng trên vỉa hè bê tông của Vườn Tưởng niệm Forest Hills cũng như đám cỏ bên cạnh.
Không tìm được bất cứ nhân chứng nào và Miguel Abrera, người nhân viên bảo trì của SSD, cũng không cho biết thêm được điều gì. Anh ta đang bị chấn động mạnh vì mình đã trở thành đích ngắm của tên sát nhân, đồng thời cũng vì người bạn của anh ta đã bị sát hại, anh ta đã làm quen với người quản trang trong những lần thường xuyên tới viếng mộ vợ con. Tối hôm đó anh ta có một cảm giác mơ hổ rằng ai đó đã bám theo mình từ ga tàu điện ngầm, thậm chí anh ta đã dừng lại, liếc nhìn vào các cửa kính để xem liệu có cái đuôi nào bám theo mình hay không. Nhưng anh ta không phát hiện được ai và tiếp tục đi tới nghĩa trang.
Lúc này, trong bộ đồng phục áo liền quần màu trắng, Sachs chỉ huy hai nhân viên cảnh sát từ Đơn vị Điều tra hiện trường chính của Sở đóng tại Queens tiến hành chụp ảnh và quay video mọi thứ. Cô kiểm tra thi thể nạn nhân, sau đó bắt đầu khám nghiệm hiện trường một cách đặc biệt cẩn thận. Đây là một hiện trường quan trọng. Vụ án mạng đã xảy ra rất nhanh và dã man, rõ ràng người quản trang đã làm Năm Hai Hai bị bất ngờ. Họ đã giằng co, có nghĩa là sẽ có nhiều cơ hội tìm thấy bằng chứng cung cấp nhiều thông tin hơn về kẻ sát nhân.
Sachs bắt đầu quá trình khám nghiệm, cô bước từng bước một trong khu vực hiện trường theo một chiều, sau đó rẽ vuông góc và lại tìm kiếm một lần nữa đúng khu vực đó.
Đến nửa đường, cô đột ngột dừng lại.
Một tiếng động.
Cô dám chắc đó là tiếng của kim loại va chạm vào nhau. Một viên đạn lên nòng? Hay một con dao được mở ra?
Cô liếc xung quanh, nhưng chỉ nhìn thấy khu nghĩa trang lờ mờ dưới màn đêm. Amelia Sachs không tin vào những hồn ma, bình thường vẫn cảm thấy những nơi như thế này thật bình yên, thậm chí dễ chịu. Nhưng lúc này hai hàm răng cô đang va vào nhau lập cập, bàn tay túa mồ hôi bên trong những chiếc găng cao su.
Cô vừa quay lại phía xác nạn nhân thì kinh ngạc khi nhìn thấy một tia sáng lóe lên gần đó.
Liệu có phải là ánh đèn từ những chiếc xe đang chạy trên đường chiếu qua các khóm cây?
Hay Năm Hai Hai đang lại gần với một con dao trong tay?
Ngoài-vòng-kiểm-soát…
Cô không thể không nghĩ tới việc hắn đã một lần tìm cách giết cô – vụ gài bẫy ngay gần ngôi nhà của DeLeon Williams với tay đặc vụ liên bang – và không thành công. Rất có thể hắn đã hạ quyết tâm phải kết thúc việc hắn đã khởi đầu.
Cô quay trở lại với công việc của mình. Nhưng khi đã gần hoàn tất công việc thu thập bằng chứng, cô lại rùng mình ớn lạnh.
Lại có tiếng động, lần này từ phía bên kia của khu vực được chiếu sáng, nhưng vẫn nằm trong khuôn viên nghĩa trang, lúc này đã bị các nhân viên tuần tra phong tỏa. Cô nheo mắt nhìn qua quầng sáng. Liệu có phải đó chỉ là một làn gió vừa thổi qua một thân cây? Hay một con vật nào đó?
Bố cô, một cảnh sát điều tra đã cống hiến trọn đời cho ngành và là một nguồn cung cấp hào phóng những điều khôn ngoan học được từ đường phố, đã có lần nói với cô: “Hãy quên những xác chết đi, Amie, họ không làm gì hại con đâu. Hãy để tâm đến những kẻ khiến họ phải chết.”
Cũng gần tương tự như lời khuyên của Rhyme: “Tìm kiếm cẩn thận, nhưng hãy canh chừng sau lưng em.”
Amelia Sachs không tin vào giác quan thứ sáu. Không phải theo cách người ta vẫn nghĩ về những thế lực siêu nhiên. Với cô, toàn bộ thế giới tự nhiên thật đáng kinh ngạc, đây phức tạp và mạnh mẽ. Nhưng trong trường hợp này, chúng ta không hề cần đến những quyền năng siêu nhiên để đưa ra những suy luận chính xác nhất.
Cô biết chắc có ai đó đang ở đây.
Cô bước ra khỏi phạm vi hiện trường và gài khẩu Glock vào hông. Nắm lấy báng súng vài lần để định hướng cho bàn tay trong trường hợp cô cần rút súng khẩn cấp. Cô quay lại với công việc khám nghiệm, kết thúc việc thu thập bằng chứng và khẩn trương quay về hướng trước đó cô đã nhìn thấy sự chuyển động.
Ánh sáng trong khu hiện trường mạnh đến chói mắt, nhưng cô biết chắc có ai đó ở ngoài kia, quan sát cô từ phía sau lò hỏa táng. Có thể chỉ là một công nhân làm việc tại đó, nhưng không thể bỏ sót bất cứ điều gì. Tay đặt sẵn lên súng, cô bước về phía trước chừng sáu mét. Bộ đồ màu trắng đang mặc biến cô thành một mục tiêu ngon xơi trong bóng tối, nhưng cô quyết định chấp nhận mạo hiểm.
Cô rút khẩu Glock, khẩn trương bước nhanh qua các khóm cây một cách đầy khó nhọc với đôi chân đang đau nhức vì cơn viêm khớp, hướng tới chỗ bóng đen nọ. Nhưng rồi Sachs dừng lại nhăn mặt trong khi nhìn về phía khu tiếp nhận của lò hỏa táng, nơi cô đã phát hiện thấy kẻ xâm nhập. Miệng cô mím chặt lại, thầm bực bội với chính mình. Người đàn ông đó, một bóng người nổi bật dưới ánh sáng từ ngoài đường hắt vào nghĩa trang, là một cảnh sát; cô có thể nhìn thấy hình dáng chiếc mũ của nhân viên tuần tra và tư thế ủ ê buồn chán của một người đang phải đứng gác. Cô gọi: “Này anh? Có thấy ai quanh đây không?”
“Không, thám tử Sachs,” anh ta trả lời. “Chắc chắn là không.”
“Cảm ơn.”
Cô kết thúc việc thu thập bằng chứng sau đó bàn giao lại hiện trường cho bác sĩ pháp y.
Quay lại xe, cô mở thùng xe ra và bắt đầu cởi bộ đồ áo liền quần màu trắng ra. Đồng thời trò chuyện với mấy cảnh sát khác tới từ Sở, chỉ huy của Đội Điều tra hiện trường tại Queens. Họ cũng đang thay bộ đồng phục của mình. Một người cau mày nhìn quanh tìm kiếm thứ gì đó.
“Đánh mất gì sao?” Cô hỏi.
Anh ta cau có, “Phải. Nó ở ngay đây mà. Cái mũ của tôi.”
Sachs lạnh người. “Cái gì?”
“Nó mất rồi.”
Chết tiệt. Cô ném bộ đồng phục vào thùng xe, lao vội tới chỗ viên thượng sĩ đồn cảnh sát khu vực, lúc này đang là người phụ trách hiện trường. “Anh có cử ai tới khu tiếp nhận của lò hỏa táng không?” Cô vừa thở không ra hơi vừa hỏi.
“Đằng kia à? Không. Tôi thấy không cần. Chúng tôi đã phong tỏa toàn bộ khu vực này và…”
Quay lại, cô chạy tới chỗ khu tiếp nhận, khẩu Glock trong tay. Cô hét lớn với mấy cảnh sát đứng gần đó: “Hắn đang ở đây! Tới chỗ lò hỏa táng. Nhanh lên!”
Sachs dừng lại trước tòa nhà cũ xây bằng gạch đỏ, nhìn thấy cánh cổng dẫn ra phố mở tung. Kiểm tra nhanh, xung quanh không để lộ ra dấu vết nào của Năm Hai Hai. Cô tiếp tục chạy ra phố, vội vã nhìn ra ngoài, cả về bên phải và bên trái. Dòng người, xe cộ đi lại, những kẻ tò mò đang đứng nhìn – rất nhiều. Nhưng hắn đã biến mất.
Cô quay trở lại khu tiếp nhận và không ngạc nhiên khi tìm thấy chiếc mũ cảnh sát nằm ngay gần đó. Nó nằm bên cạnh tấm biển Để quan tài tại đây. Cô nhặt chiếc mũ cho vào một chiếc túi đựng bằng chứng và quay lại chỗ các nhân viên cảnh sát. Sachs và người thượng sĩ của đồn cảnh sát khu vực cử các nhân viên đi quanh khu vực nghĩa trang tìm hiểu xem có ai nhìn thấy kẻ tình nghi hay không. Sau đó cô trở lại xe. Tất nhiên, hẳn lúc này hắn đã cách đây rất xa, nhưng cô vẫn không thể rũ bỏ được cảm giác bất an đầy ám ảnh – xuất phát chủ yếu từ việc hắn không hề bỏ chạy khi trông thấy cô đi về phía lò hỏa táng, thay vì thế vẫn thản nhiên nán lại.
Nhưng điều khiến cô bị ám ảnh hơn cả là giọng nói bình thản của hắn khi hắn gọi cô bằng tên.
– – * – –
“Họ có đồng ý không?” Rhyme gần như gắt lên khi Lon Sellitto bước qua ngưỡng cửa, trở về từ chuyến đi vào thành phố gặp Đại úy Malloy và Phó Thị trưởng Ron Scott, để trình bày về cái mà Rhyme gọi là ‘Kế hoạch Chuyên gia’.
“Không mấy vui vẻ. Nó khá đắt đỏ và họ…”
“Chết… tiệt. Phải gọi ngay cho ai đó.”
“Bình tình, bình tĩnh nào. Họ sẽ thực hiện nó và đang tiến hành thu xếp. Tôi mới chỉ đang nói là họ cằn nhằn thôi mà.”
“Đáng ra anh phải nói ngay cho tôi biết là họ đồng ý. Tôi không cần biết họ cằn nhằn nhiều thế nào.”
“Joseph Malloy sẽ gọi cho tôi và cung cấp các chi tiết.”
Đến khoảng chín giờ rưỡi tối, cửa phòng lại mở và Amelia Sachs bước vào, mang theo bằng chứng thu thập được từ hiện trường vụ sát hại người quản trang.
“Hắn đã có mặt ở đó,” cô nói.
Rhyme không hiểu ý cô.
“Năm Hai Hai. Ở nghĩa trang. Hắn đang theo dõi chúng ta.”
“Đừng vớ vẩn,” Sellitto nói.
“Hắn đã chuồn mất khi tôi hiểu ra.” Cô đưa ra chiếc mũ của nhân viên tuần tra và thuật lại chuyện hắn đã dùng nó cải trang trong lúc theo dõi cô.
“Hắn làm thế để được cái chết tiệt gì chứ?”
“Thông tin,” Rhyme khẽ nói. “Biết càng nhiều, hắn sẽ càng có lợi, còn chúng ta càng trở nên hoang mang…”
“Cô đã kiểm tra khu vực chưa?” Sellitto hỏi.
“Một đội cảnh sát khu vực đã làm chuyện đó. Không ai nhìn thấy hắn.”
“Hắn biết mọi thứ. Chúng ta thì chẳng biết gì.”
Cô mở chiếc thùng ra, đôi mắt Rhyme dõi theo từng chiếc túi đựng bằng chứng. “Họ đã giằng co. Có thể có vài dấu vết rất hữu ích sót lại.”
“Hãy hy vọng là thế.”
“Tôi đã nói chuyện với Abrera, người nhân viên bảo trì. Anh ta kể trong tháng vừa rồi có vài chuyện rất lạ lùng. Bảng theo dõi thời gian của anh ta bị thay đổi, có những khoản tiền bất thường gửi vào tài khoản của anh ta.”
Cooper đề xuất: “Giống như Jorgensen – đánh cắp danh tính?”
“Không, không,” Rhyme nói. “Tôi dám cá Năm Hai Hai đang nuôi dưỡng để biến anh ta thành kẻ thế thân. Có thể là một vụ tự sát. Rồi để lại một bức thư tuyệt mệnh… Chỗ đó có phải là mộ vợ con anh ta không?”
“Đúng thế.”
“Rõ rồi. Anh ta bị suy sụp. Chuẩn bị tự kết liễu đời mình. Tự thú về mọi tội ác trong bức thư tuyệt mệnh. Chúng ta khép lại vụ án. Nhưng người quản trang đã bắt gặp hắn trong lúc hành sự. Lúc này Năm Hai Hai đang sa vào ngõ cụt. Hắn không thể làm vụ ngụy tạo tự sát lần nữa. Hắn sẽ phải cố làm điều gì đó khác. Nhưng là gì?”
Cooper đã bắt đầu kiểm tra các bằng chứng. “Không có tóc trong chiếc mũ, không có bất cứ dấu vết nào… Nhưng quý vị biết tôi tìm thấy gì không? Một mẩu băng dính.”
“Hắn đã xóa sạch dấu vết trước khi bỏ chiếc mũ lại,” Rhyme nói, mặt cau có. Giờ thì không việc gì Năm Hai Hai làm có thể khiến anh ngạc nhiên nữa.
Sau đó Cooper lại thông báo: “Từ hiện trường ngôi mộ, tôi tìm thấy một mẫu sợi. Tương tự như của sợi dây thừng đã được dùng trong vụ trước.”
“Tốt! Trên đó có gì không?”
Cooper chuẩn bị mẫu rồi tiến hành xét nghiệm. Một lát sau anh ta thông báo kết quả: “Okay, thu được hai thứ. Nhiều nhất là naphthalene trong môi trường kết tinh trơ.”
“Những viên băng phiến,” Rhyme nói. Thứ này đã xuất hiện trong một vụ đầu độc diễn ra vài năm trước. “Nhưng là loại cũ.” Anh giải thích, trên thực tế trong phần lớn trường hợp naphthalene đã bị loại bỏ và được thay thế bằng những nguyên liệu an toàn hơn. “Hoặc,” anh nói thêm, “từ nước ngoài nhập vào.”
“Và một thứ nữa.” Cooper ra dấu về phía màn hình máy tính. Hợp chất được phát hiện có công thức Na(CéHiiNHS020). “Và nó lẫn với lecithin, sáp camauba và axit citric.”
“Thứ quái gì vậy?” Rhyme buột miệng hỏi.
Thêm một cơ sở dữ liệu nữa được tham khảo. “Natri cyclamate.”
“À, một chất làm ngọt nhân tạo, đúng không?”
“Đúng là nó,” Cooper vừa đọc vừa nói. “Bị FDA cấm sử dụng từ ba mươi năm trước. Lệnh cấm vẫn đang bị tranh cãi nhưng không có sản phẩm nào sử dụng nó kể từ những năm bảy mươi.”
Sau đó dòng suy nghĩ của Rhyme lần lượt nhảy từ chủ đề này sang chủ đề khác, theo đúng hành trình của đôi mắt anh khi chúng nhảy từ mục này tới mục khác trên các tấm bảng danh sách bằng chứng. “Bìa các tông cũ. Nấm mốc. Sợi thuốc lá đã khô. Tóc búp bê? Soda cũ? Và những hộp đựng băng phiến? Tất cả những thứ này dẫn tới đâu mới được chứ? Liệu có phải hắn sống gần một cửa hàng bán đồ cổ? Hay ngay trên một cửa hàng đồ cổ?”
Họ tiếp tục tiến hành các phân tích: vết phospho sesquisulfid, nguyên liệu chính trong sản xuất diêm an toàn, cùng mẫu bụi từ Trung tâm Thương mại Thế giới và những mảnh từ lá cây dieffenbachia, hay còn gọi là huệ tây lá đốm. Một loại cây cảnh trong nhà rất phổ biến.
Những bằng chứng còn lại gồm mẫu giấy từ những tờ giấy viết màu vàng, nhiều khả năng là hai tờ khác nhau vì có khác biệt về màu sắc. Thêm nữa, lại tìm thấy thứ gia vị mà Rhyme từng phát hiện trên con dao được dùng để sát hại người sưu tập tiền xu. Lần này họ có đủ mẫu để giám định một cách nghiêm chỉnh các hạt gia vị và màu sắc. “Là hạt tiêu cayen,” Cooper thông báo.
Sellitto lẩm bẩm: “Trước đây từng có thời anh có thể tóm ai đó có láng giềng gốc Latinh với thứ này. Nhưng giờ anh có thể nhảy salsa và tìm thấy các loại xốt cay bỏng mồm này ở bất cứ đâu. Từ Whole Foods cho tới 7-Elevens.”
Bằng chứng duy nhất còn lại là một dấu giày trên nền đất của ngôi mộ mới gần nơi xảy ra vụ án mạng. Sachs suy đoán đây là dấu giày của Năm Hai Hai vì có vẻ người để lại dấu giày đang chạy về phía lối ra của nghĩa trang.
So sánh hình ảnh quét tĩnh điện của dấu giày với cơ sở dữ liệu các loại dấu giày cho thấy đôi giày Năm Hai Hai đi là một đôi hiệu Skecher cỡ 11 đã mòn, một mẫu giày khá tiện lợi, dù không thực sự kiểu cách, mà những người lao động và những người đi bộ dã ngoại thường dùng.
Trong khi Sachs nhận một cuộc gọi, Rhyme yêu cầu Thom viết các chi tiết vừa tìm hiểu được lên bản danh sách đúng như anh đọc. Rhyme nhìn đăm đăm vào các thông tin, đã có thêm rất nhiều thông tin so với ban đầu. Nhưng chẳng dẫn tới đâu cả.
MÔ TẢ ĐẶC ĐIỂM ĐTBA 522
• Nam giới.
• Có thể hút thuốc hay sống/làm việc với người hút thuốc, hoặc ở gần nguồn gây ra tàn thuốc.
• Có con hoặc sống/làm việc gần nơi có trẻ con hay nơi có nguồn đồ chơi.
• Quan tâm tới tác phẩm nghệ thuật, tiền xu cổ?
• Nhiều khả năng da trắng hoặc da sáng màu.
• Vóc người trung bình.
• Khỏe – có khả năng siết cổ nạn nhân.
• Có cơ hội tiếp cận thiết bị ngụy trang giọng nói.
• Nhiều khả năng biết rõ về máy tính, mạng xã hội OurWorld. Còn các trang mạng xã hội khác?
• Lấy chiến lợi phẩm từ nạn nhân. Một kẻ tàn bạo biến thái?
• Một phần nơi ở/nơi làm việc thường xuyên trong tình trạng thiếu ánh sáng, ẩm thấp.
• Sống tại khu Manhattan hoặc gần khu này?
• Ăn đồ ăn vặt/xốt cay.
• Sống gần cửa hàng đồ cổ
• Đi giày đi làm hiệu Skecher cỡ 11.
…
BẰNG CHỨNG KHÔNG SẮP ĐẶT TRƯỚC:
• Vết bụi.
• Vết bìa các tông cũ.
• Tóc búp bê, sợi BASF B35 nylon 6.
• Tàn thuốc lá từ thuốc lá điếu Tareyton.
• Mảnh thuốc lá cũ, không phải Tareyton, nhưng không rõ loại.
• Vết nấm mốc Stachybotrys Chartarum.
• Bụi, từ vụ tấn công Trung tâm Thương mại Thế giới, rất có khả năng là dấu hiệu cho thấy chỗ ở/nơi làm việc ở khu Manhattan.
• Mảnh đồ ăn vặt/hạt tiêu cayen.
• Sợi thừng có chứa:
+ Chất làm ngọt soda cyclamate (hàng cũ hoặc nguồn gốc nước ngoài)-
+ Viên băng phiến có chứa naphthalene (hàng cũ hoặc nguồn gốc nước ngoài).
• Mảnh lá cây huệ tây lá đốm (cây cảnh trong nhà, cần ánh sáng).
• Vết từ hai tờ giấy viết khác nhau màu vàng.
• Vết giày đi làm hiệu Skecher cỡ 11.