Người ta không nhắc đến tên ngươi, ấy lại lành.
Francis Beaumont and John Fletcher
The False One
Ngày hôm sau mưa tuyết thay nhau đập vào cửa sổ văn phòng. Sếp của cô Brocklehurst ghé qua khoảng giữa trưa để kiểm tra bằng chứng ngoại tình. Strike vừa tiễn ông này ra về một lúc thì Caroline Ingles xuất hiện. Bà Ingles có vẻ tất bật do đang trên đường đi đón con, nhưng quyết phải đến đưa Strike tấm thẻ thành viên câu lạc bộ quý ông Golden Lace vừa mở cửa. Bà tìm được tấm thẻ trong ví ông chồng. Ông Ingles đã hứa sẽ tránh xa mọi thể loại gái nhảy, gái gọi lẫn vũ nữ thoát y để hàn gắn với vợ con. Strike nhận lời sẽ thử ghé qua Golden Lace, xem ông Ingles có lại yếu lòng trước cám dỗ nữa chăng. Đến khi Caroline Ingles vừa đi khỏi, Strike đói cồn cào, chỉ chờ ăn bánh mì kẹp để sẵn trên bàn Robin. Nhưng hắn vừa mới cắn một miếng thì điện thoại đổ chuông.
Biết rõ quan hệ công việc giữa hai người sắp kết thúc, nữ thân chủ tóc nâu lần này đổ liều, mời Strike đi ăn tối. Strike ngờ ngợ thấy hình như Robin đang vừa ăn bánh mì, vừa tủm tỉm cười, mặc dù vẫn chăm chú nhìn vào màn hình máy tính. Hắn cố lịch sự từ chối, đầu tiên là vì bận việc, rồi cuối cùng thổ lộ rằng hắn đã có bạn gái.
“Anh chưa bao giờ nói chuyện đó với tôi cả,” nữ thân chủ lên tiếng, tự dưng lạnh lùng hẳn.
“Tôi luôn tách biệt công việc và đời tư,” hắn nói.
Nữ thân chủ dập máy khi hắn còn chưa kịp lịch sự chào tạm biệt.
“Có lẽ anh nên nhận lời đi chơi với bà ấy,” Robin ngây thơ nói. “Nhớ làm sao để bà ấy trả tiền là được.”
“Đương nhiên bà ấy phải trả chứ,” Strike gầm gừ, ngoạm một miếng bánh thật to bù lại. Điện thoại rung lên. Hắn hừ một tiếng rồi nhìn xuống xem ai vừa nhắn tin cho mình.
Ruột gan hắn thắt lại.
“Leonora à?” Robin hỏi khi thấy mặt hắn tiu nghỉu.
Strike lắc đầu, miệng vẫn đầy bánh.
Tin nhắn chỉ vỏn vẹn ba từ:
“Là con anh.”
Từ lúc chia tay với Charlotte hắn vẫn chưa đổi số điện thoại. Quá phiền toái, nhất là khi cả trăm mối làm ăn dùng số đó. Đây là lần đầu tiên cô ta nhắn cho hắn trong vòng tám tháng qua.
Strike nhớ rõ lời dặn dò của Polworth:
Coi chừng đó Diddy, kiểu gì Tiểu thơ cũng sẽ trở lại ghé thăm. Tao không ngạc nhiên nếu tiểu thơ bùng lần này.
Hôm nay là ngày ba, hắn tự nhắc mình. Đúng lịch thì ngày mai là đám cưới của Charlotte.
Lần đầu tiên kể từ khi có điện thoại di động, Strike ước gì điện thoại có chức năng tiết lộ vị trí của người gọi. Phải chăng cô ta vừa nhắn tin từ Lâu đài xứ Croy chết giẫm, trong lúc nghỉ tay khi đang kiểm tra các món nhắm và hoa trong nhà thờ? Hai cô ta đang đứng ở dưới góc đường phố Denmark, rình mò văn phòng của hắn như Pippa Midgley hôm nào? Cuộc bỏ chạy khỏi một đám cưới hoành tráng, đầy tiếng tăm như vậy hẳn sẽ là thành tựu đỉnh cao trong sự nghiệp bốc đồng nổi loạn của Charlotte.
Strike đút điện thoại vào túi rồi nhìn chiếc bánh mì kẹp thứ hai. Robin đoán rằng cô sẽ không thể biết được điều gì khiến mặt mày hắn sầm lại. Cô vò túi đựng khoai tây chiên, thả xuống giỏ rác rồi hỏi:
“Tối nay anh gặp em trai phải không?”
“Gì kia?”
“Không phải anh gặp em trai tối nay sao…?”
“À đúng rồi,” Strike đáp. “Đúng thế.”
“Ở nhà hàng River Café?”
“Ừ.”
Là con anh.
“Chi vậy?” Robin hỏi.
Con của tôi sao. Mẹ kiếp. Nếu thực sự đã từng có.
“Gì kia?” Strike đáp lại, mơ hồ nhận ra Robin vừa hỏi hắn câu gì đó.
“Anh có sao không?”
“Không sao,” hắn nói, ngồi ngay ngắn lại. “Lúc nãy cô hỏi gì tôi vậy?”
“Hỏi anh đi nhà hàng River Café để làm gì?”
“À. Thì,” Strike đáp, với tay lấy gói khoai tây chiên giòn. “cũng không trông mong gì nhiều, nhưng tôi muốn gặp người nào từng chứng kiến vụ cãi vã của Quine và Tassel. Tôi đang cố xác định xem liệu có phải chính Quine dựng ra màn đó không, liệu ông ta có lên kế hoạch vụ biến mất từ trước không.”
“Anh mong là sẽ gặp được nhân viên phục vụ có mặt hôm đó?” Robin hỏi mò.
“Chính vì vậy mà tôi rủ Al theo,” Strike nói. “Nó biết hết thảy nhân viên ở các nhà hàng xịn ở London. Đám con của cha tôi đứa nào cũng vậy.”
Ăn trưa xong Strike mang cà phê vào văn phòng riêng rồi đóng cửa lại. Mưa tuyết vẫn lạt xạt lên cửa sổ. Hắn không kìm được, bèn liếc nhìn xuống con đường băng giá, nửa chờ đợi (hi vọng?) sẽ thấy cô ta đứng đó, mái tóc đen dài ôm lấy gương mặt hoàn hảo, trắng trẻo, ngước nhìn hắn van xin với đôi mắt sáng màu xanh hạt dẻ… nhưng trên phố không có ai, trừ những kẻ xa lạ khăn mũ kỹ càng trước mưa gió không ngớt.
Hẳn là hắn điên mất rồi. Cô đang ở Scotland, như vậy tốt hơn, tốt hơn nhiều.
Sau đó, khi Robin đã ra về, Strike mặc bộ complet Ý Charlotte tặng hắn hơn một năm trước, khi cả hai cũng đến nhà hàng River Café để ăn mừng sinh nhật lần thứ ba mươi lăm của hắn. Mặc áo khoác xong, hắn khóa cửa căn hộ, đi ra ga tàu điện trong cái lạnh dưới không độ, vẫn tì người lên gậy chống.
Giáng Sinh như đang tấn công hắn từ mọi cửa sổ trên đường; đèn lấp lánh, hàng hóa chất đống, nào đồ chơi, nào thiết bị công nghệ, tuyết giả gắn lên cửa kính, đủ thể loại bảng hiệu giảm giá trước Giáng Sinh, như muốn thêm vào chút vị xót xa giữa đáy cơn khủng hoảng. Rồi đến những kẻ ăn mừng Giáng Sinh sớm trên tàu điện tối thứ Sáu: mấy cô gái mặc đầm lấp lánh cũn cỡn, chấp cả cái lạnh kinh người, chỉ để chực mò mẫm với một anh chàng cùng cơ quan. Strike thấy mệt mỏi, chán chường.
Cuốc đi bộ từ ga Hammersmith đến nhà hàng lâu hơn hắn tưởng. Khi đi dọc theo phố Fulham Place hắn nhận ra mình đang ở rất gần nhà của Elizabeth Tassel. Có lẽ bà ta đã chọn nhà hàng này để gặp Quine chỉ vì tiện đường cho mình, mặc cho nó khá xa nhà của ông nhà văn ở Ladbroke Grove.
Mười phút sau, Strike rẽ phải, đi thẳng vào màn đêm về hướng bến tàu Thames Wharf, xuyên qua những con phố trống trơn chỉ có tiếng vọng, hơi thở hắn bốc lên như sương khói. Khu vườn ven sông vào mùa hè chật kín thực khách với bàn ghế trải khăn trắng, giờ đây đã bị chôn dưới lớp tuyết dày. Xa khỏi tấm thảm tuyết, sông Thames ánh lên trong đêm, lạnh cóng, đầy đe dọa. Strike bước vào nhà hàng vốn trước là nhà kho xây gạch. Ngay lập tức hắn thấy ngập trong ánh sáng, không khí ấm áp và tiếng ồn.
Al đang đứng ngay cạnh cửa ra vào. Anh chàng dựa vào quầy bar, khuỷu tay đặt trên mặt bàn kim loại bóng loáng, say sưa nói chuyện với nhân viên pha chế.
Al cao chưa đến mét tám, như vậy là tương đối thấp so với đám con cái của Rokeby, người lại hơi đẫy đà. Mái tóc màu nâu lông chuột vuốt keo ra sau. Al có khuôn hàm hẹp của mẹ nhưng thừa kế kiểu lé kim kỳ quặc nhưng quyến rũ trên gương mặt điển trai của Rokeby, nhìn vào biết ngay là con ai.
Nhác thấy Strike, Al rú lên mừng rỡ, nhảy về trước ôm chầm lấy hắn. Strike dường như không phản ứng gì, vì vừa vướng gậy chống lại vừa dở tay cởi áo khoác. Al hơi dội lại, trông có vẻ bối rối.
“Sao rồi ông anh?”
Mặc dù phong cách hài hước rặt Anh, Al có thứ giọng pha trộn giữa hai bờ Đại Tây Dương, cho thấy anh chàng từng sống nhiều năm ở cả châu Âu và Mỹ.
“Không tệ lắm,” Strike đáp, “chú thì sao?”
“Cũng không tệ,” Al đáp. “Không đến nỗi. Còn ngon chán.”
Anh ta nhún vai màu mè như người Pháp. Al từng theo học trường Le Rosey, một trường nội trú quốc tế ở Thụy Sỹ. Cung cách của anh chàng vẫn có hơi hướng châu Âu lục địa từ hồi đó. Ở Al luôn có chút gì đó mà mỗi lần gặp Strike lại nhận ra: một thứ cảm giác tội lỗi, một chút tự ái, như anh chàng đã chuẩn bị sẵn tinh thần nghe người ta đàm tiếu rằng mình đã sống cuộc đời quá dễ dàng, êm đẹp so với ông anh trai.
“Anh uống gì?” Al hỏi. “Bia? Peroni nhé?”
Hai người ngồi cạnh nhau bên quầy bar đông người, đối diện với kệ kính đầy chai lọ, đợi người ta dọn bàn. Strike nhìn xuống nhà hàng dài kín khách, trên là trần thép công nghiệp uốn lượn kiểu cọ, dưới nền lót thảm màu xanh da trời, xa xa về cuối nhà có lò sưởi đốt củi trông giống tổ ong khổng lồ. Hắn điểm mặt được một nghệ sĩ điêu khắc đình đám, một nữ kiến trúc sư nổi tiếng và ít nhất là một diễn viên quen thuộc.
“Có nghe chuyện anh với Charlotte,” Al bắt chuyện. “Tiếc quá.”
Strike tự hỏi liệu Al có quen biết gì với bạn bè của cô ta không. Al đàn đúm với một đám con nhà giàu, có khi dây mơ rễ má đến tận tử tước Croy tương lai.
“Ừ, thì,” Strike nhún vai. “vậy cũng tốt mà.”
(Hắn và Charlotte từng ngồi đây, trong nhà hàng tuyệt vời bên bờ sông này, cùng tận hưởng buổi tối hạnh phúc cuối cùng của hai người. Sau đó là bốn tháng lục đục gây gổ, bốn tháng giận dữ, mỏi mệt và đau khổ… Là con anh.)
Một cô gái trẻ đẹp chào Al bằng tên thân mật rồi dẫn hai người đến bàn ăn; một chàng trai cũng quyến rũ như thế đến đưa thực đơn. Strike đợi Al gọi rượu và nhân viên nhà hàng rút đi rồi mới giải thích lý do muốn gặp ở đây.
“Bốn tuần trước,” hắn nói với Al, “một nhà văn tên là Owen Quine cãi nhau với người đại diện tác giả của mình ở đây. Theo lời tất cả nhân chứng thì cả nhà hàng lúc đó đều nghe thấy. Ông ta bỏ ra giữa chừng, rồi không lâu sau đó – có thể chỉ vài ngày sau, mà cũng thể ngay trong đêm đó…”
“Ông ấy bị giết chết,” Al nói, nãy giờ vẫn há hốc miệng nghe Strike kể. “Em có thấy trên báo. Anh là người tìm ra xác.”
Giọng Al như có ý muốn nghe kể thêm, nhưng Strike lờ đi.
“Có thể không tìm ra được gì ở đây cả, nhưng anh…”
“Bà vợ làm mà,” Al nói, vẻ khó hiểu. “Họ bắt bà ấy rồi.”
“Không phải bà ấy làm,” Strike nói, quay sang đọc thực đơn. Hắn từng nhận ra rằng mặc dù Al đã lớn lên với vô số đồn thổi báo chí về cha và gia đình mình, đến mức miễn nhiễm, nhưng anh chàng dường như vẫn không nghi ngờ báo giới Anh quốc nếu đó là chuyện của người khác.
(Trường của Al có hai cơ sở: mùa hè học chính ở cạnh hồ Geneva, mùa đông dọn lên Gstaad với những buổi chiều chỉ tập trượt tuyết và trượt băng. Al lớn lên, hít thở thứ không khí trên núi cao đắt đỏ, làm bạn với con của những người nổi tiếng khác. Báo chí nanh nọc ở xa chẳng ảnh hưởng mấy đến cậu em trai hắn… Strike luận ra hết chừng đó từ chút chuyện ít ỏi Al kể.)
“Không phải vợ ông ấy làm sao?” Al hỏi lại khi Strike nhìn lên.
“Ừ.”
“Oa. Anh sẽ làm một vụ Lula Landry nữa chứ?” Al hỏi, cười tận mang tai, trông rất hợp với kiểu lé kim.
“Biết đâu đó,” Strike đáp.
“Muốn em gọi nhân viên nhà hàng hỏi chuyện hả?” Al hỏi.
“Chính xác,” Strike đáp.
Hắn thấy tức cười lẫn cảm động. Al có vẻ rất mừng khi được hắn nhờ vả.
“Không thành vấn đề. Không thành vấn đề. Để gọi đứa nào được việc cho anh. Loulou đi đâu rồi nhỉ? Con bé khá lắm.”
Sau khi gọi món, Al đi ra nhà vệ sinh, sẵn nhìn quanh xem có thấy Loulou ở đâu không. Strike ngồi một mình, uống rượu vang Tignanello lúc nãy Al gọi, ngắm dàn đầu bếp mặc áo trắng đang làm việc trong nhà bếp mở. Đầu bếp toàn là người trẻ, thạo việc, nhanh nhẹn. Lửa lò cháy bùng, dao ánh lên, xoong chảo sắt nặng nề đưa qua đưa lại.
Cu cậu đâu phải là hạng ngốc nghếch, Strike nghĩ thầm, ngắm Al đang vòng vèo trở lại bàn, dẫn theo một cô gái tóc đen mặc tạp dề trắng. Chỉ là…
“Đây là Loulou,” Al nói, ngồi xuống. “Hôm đó cô ấy có ở đây.”
“Cô có nhớ vụ cãi nhau không?” Strike hỏi, tập trung ngay vào cô gái bận rộn đến không thể ngồi xuống được nhưng vẫn kịp mỉm cười vu vơ với hắn.
“À có,” cô nói. “Lớn tiếng lắm. Làm cả nhà hàng sững hết.”
“Cô nhớ ông đó trông ra sao không?” Strike hỏi, muốn kiểm tra ngay rằng cô gái đã nhìn đúng người.
“Ông béo đội mũ, chứ gì,” cô nói. “Hét vào mặt một bà tóc bạc. Đúng vậy, hai người rõ là cãi nhau tá hỏa. Xin lỗi, tôi phải…”
Rồi cô đi mất, để ghi món cho một bàn khác.
“Lát nữa mình gọi cô ấy lại,” Al an ủi Strike. “À, Eddie có gởi lời thăm. Nói giá mà hôm nay cũng đi được.”
“Nó sao rồi?” Strike hỏi, giả vờ quan tâm. Al vẫn luôn cố gắng gặp gỡ Strike, trong khi cậu em Eddie thì có vẻ thờ ơ. Eddie hai mươi bốn tuổi, là ca sĩ chính trong ban nhạc riêng. Strike chưa bao giờ nghe nhạc của cậu ta cả.
“Ngon lành,” Al đáp.
Hai người im lặng. Món khai vị xuất hiện, cả hai ăn mà không nói gì. Strike biết rằng Al đã đậu bằng Tú Tài Quốc Tế với điểm xuất sắc. Một buổi tối trong trại lính ở Afghanistan, Strike thấy trên mạng đăng hình Al mười tám tuổi, mặc áo vét màu kem có phù hiệu ở túi áo, tóc dài bay trong gió, ánh vàng dưới nắng Geneva. Rokeby đứng quàng tay qua con trai, đúng kiểu ông bố tự hào. Tấm hình được đăng báo chỉ vì trước đó chưa có tấm nào chụp Rokeby đóng bộ complet.
“Chào anh Al,” một giọng nói quen thuộc cất lên.
Rồi, Strike bất ngờ nhận ra Daniel Chard chống nạng đứng đó, đầu hói phản chiếu ánh đèn gắn kín đáo ở trần sắt uốn lượn bên trên. Ông ta mặc áo sơ mi màu đỏ thẫm không cài khuy cổ, complet màu xám, trông khá sành điệu giữa giới nghệ sĩ ở nhà hàng.
“Ô,” Al lên tiếng, Strike thấy rõ là anh chàng không nhớ nổi Chard là ai, “à… chào..”
“Dan Chard,” ông giám đốc nhà xuất bản đỡ lời. “Ta đã gặp nhau khi tôi bàn vụ cuốn tự truyện với bố anh đấy?”
“Ồ… ồ vâng,” Al nói, đứng dậy bắt tay. “Đây là Cormoran, anh trai tôi.”
Nếu lúc nãy Strike ngạc nhiên khi thấy Chard thì giờ đây Chard như bị sốc khi nhận ra hắn.
“Anh… anh trai của cậu?”
“Anh cùng cha khác mẹ,” Strike đáp, trong bụng thấy tức cười vì Chard sững sờ đến đứng hình. Hẳn ông ta đang nghĩ chẳng lẽ tay thám tử chuyên đánh thuê kia lại có họ hàng với công tử thiếu gia đây?
Công phu Chard đích thân đến chào hỏi, o bế cậu ấm của một khách hàng tiềm năng béo bở giờ rơi tõm vào cái hố im lặng gượng gạo của cả ba.
“Chân cẳng đỡ rồi chứ?” Strike hỏi.
“À, cũng đỡ,” Chard đáp. “Đỡ nhiều. Vậy thì… thôi chào các anh.”
Ông ta bước đi, khéo léo di chuyển giữa dãy bàn ăn, ngồi lại xuống ghế cũ, khuất tầm mắt của Strike. Strike và Al ngồi xuống trở lại, Strike nghĩ đến xã hội thượng lưu ở London, càng lên cao thì càng thu hẹp lại; nhất là sau khi đã loại hết những người không có cửa đặt bàn ở các nhà hàng và câu lạc bộ xịn nhất.
“Chịu, không nhớ ra,” Al nói, nhe răng cười bối rối.
“Ông cụ định viết tự truyện sao?” Strike hỏi.
Hắn không bao giờ gọi Rokeby là bố, nhưng trước mặt Al thì tránh gọi thẳng là Rokeby.
“Ừ,” Al nói. “Họ chịu trả nhiều lắm. Không biết sẽ làm với cha đó hay với ai khác nữa. Chắc là thuê người viết thôi.”
Trong giây lát, Strike tự hỏi không biết Rokeby sẽ đưa vào sách những gì về ông con trai đầu của mình, rồi cả những lùm xùm quanh chuyện nhận cha con. Có lẽ, hắn nghĩ, Rokeby sẽ không nhắc gì đến hắn cả. Thực hắn cũng chỉ muốn thế.
“Ông cụ vẫn muốn gặp anh, anh biết không,” Al nói, vẻ như vừa nói ra điều gì dại dột. “Cụ rất tự hào… đọc không sót gì về vụ Landry.”
“Vậy sao?” Strike nói, nhìn quanh nhà hàng tìm Loulou, cô bồi bàn còn nhớ mặt Quine.
“Đúng thế,” Al nói.
“Thế cụ làm gì, phỏng vấn các nhà xuất bản à?” Strike hỏi. Hắn nghĩ đến Kathryn Kent, đến chính Quine, người thì không tìm được nhà xuất bản, người thì bị cho ra rìa, rồi nghĩ đến ngôi sao nhạc rock luống tuổi, tha hồ được lựa chọn.
“Ừ, kiểu vậy,” Al nói. “Không biết ông cụ có chịu viết không nữa. Hình như có ai giới thiệu Chard cho bố.”
“Ai giới thiệu vậy?”
“Michael Fancourt,” Al nói, vét sạch đĩa món cơm Ý với một lát bánh mì.
“Rokeby biết Fancourt sao?” Strike hỏi, quên mất vụ cố tránh gọi ông ta bằng tên trước mặt cậu em.
“Ừ,” Al đáp, hơi nhướng mày. “Nói thẳng ra, ai mà bố chẳng biết.”
Strike tự dưng nhớ đến cách Elizabeth Tassel đã nói “tôi tưởng ai cũng biết” vì sao bà ta không làm đại diện cho Fancourt nữa, nhưng ở đây có sự khác biệt. Với Al, “ai” có nghĩa là: giới giàu có, nổi tiếng, có ảnh hưởng. Cánh bình dân mua đĩa của cha hắn không được tính vào đó, cũng như Strike từng vô danh cho tới khi bắt được sát thủ thì mới được tính là “ai đó”.
“Fancourt giới thiệu Roper Chard cho… khi nào vậy?” Strike hỏi.
“Không biết nữa, vài tháng trước?” Al đáp mơ hồ. “Ông ấy nói với bố là vừa chuyển về đó. Bên đó chịu ứng trước nửa triệu bảng.”
“Ngon hả,” Strike nói.
“Còn dặn bố nhớ theo dõi tin tức, kiểu gì cũng có chút ồn ào khi ông ấy chuyển về Roper Chard.”
Cô hầu bàn Loulou lại xuất hiện. Al vẫy cô ta lại, Loulou tiến đến, vẻ tất bật.
“Đợi mười phút nha,” cô đáp. “Rồi tôi ghé qua. Mười phút đi.”
Khi Strike ăn xong món thịt lợn, Al hỏi công việc sao rồi.
Strike ngạc nhiên vì Al có vẻ quan tâm thật sự.
“Anh có nhớ quân đội không?” Al hỏi.
“Thỉnh thoảng cũng nhớ,” Strike thật thà. “Dạo này chú làm gì?”
Hắn thấy tội lỗi vì nãy giờ vẫn chưa hỏi câu đó. Giờ đây hỏi xong, hắn chợt nghĩ không biết Al làm gì để sống, hoặc đã bao giờ đi làm kiếm cơm chăng.
“Có thể sẽ hùn hạp làm ăn với một đứa bạn,” Al đáp.
Tức là vẫn ăn không ngồi rồi, Strike nghĩ thầm.
“Định làm kiểu dịch vụ riêng tư… về giải trí,” Al lẩm bẩm.
“Hay đó,” Strike lịch sự.
“Nếu mà làm được,” Al lại lẩm bẩm.
Im lặng. Strike nhìn quanh tìm Loulou, lý do duy nhất khiến hắn đến đây, nhưng cô ta đã đi khuất tầm mắt, luôn tay luôn chân làm việc – sự bận rộn mà Al chưa bao giờ biết đến.
“Ít ra anh giờ cũng đã có uy tín,” Al nói.
“Hmm?” Strike ậm ừ.
“Thì anh tự thân lập nghiệp, không phải vậy sao?” Al tiếp.
“Gì kia?”
Strike nhận ra tình thế lệch pha ở bàn. Al nhìn hắn, vừa thách thức vừa ghen tị.
“Ờ,” Strike đáp, nhún cặp vai bề thế.
Hắn không biết phải trả lời thế nào để khỏi ra vẻ lên mặt hay thương hại, mà thực hắn cũng không hề muốn khuyến khích Al nói chuyện gì riêng tư hơn nữa.
“Chỉ có mỗi anh là không cần đến…,” Al nói. “Chắc hồi ở trong quân đội cũng không ăn thua gì, nhỉ?”
Đến nước này thì có giả vờ không hiểu cũng vô ích.
“Có lẽ là không,” Strike nói (mà thực ra, những dịp hiếm hoi khi đồng đội phát hiện ra gốc gác của hắn, họ chỉ thấy khó tin, nhất là vì hắn chẳng giống Rokeby tí nào).
Nhưng hắn rầu rầu nghĩ đến căn hộ của mình trong đêm đông buốt giá: hai gian rưỡi chật chội, kính cửa sổ chắp vá. Tối nay Al sẽ ở Mayfair, trong ngôi nhà có người hầu kẻ hạ của cha hắn. Biết đâu cũng nên cho cậu em biết thực tế phũ phàng của cái gọi là tự thân lập nghiệp, để anh chàng khỏi mơ mộng linh tinh…
“Chắc anh nghĩ em đang rên rỉ thương thân hả?” Al hỏi.
Strike xem hình chụp tốt nghiệp của Al chỉ một tiếng đồng hồ sau khi phỏng vấn một binh nhì mười chín tuổi. Binh nhì ấy vẫn còn vật vã vì vô tình bắn chết bạn thân ngay vào ngực và cổ bằng súng máy.
“Ai cũng có quyền rên rỉ mà,” Strike nói.
Vẻ mặt Al trông như vừa bị phật ý, rồi anh chàng ngập ngừng mỉm cười.
Loulou bất ngờ đến bàn, cầm theo một ly nước, khéo léo gỡ tạp dề bằng một tay trước khi ngồi xuống.
“Được rồi, giờ tôi rảnh năm phút,” cô ta nói với Strike, không vòng vo dạo đầu gì cả. “Al nói là anh muốn hỏi về cái ông nhà văn dở hơi đó hả?”
“Đúng vậy,” Strike đáp, tập trung ngay lập tức. “Vì sao cô nói ông ấy dở hơi?”
“Ông ấy có vẻ khoái chí lắm,” Loulou đáp, nhấp ngụm nước. “Khoái chí…?”
“Khoái đóng kịch. Ông ấy cứ la hét, chửi thề, nhưng rõ là để cho thiên hạ thấy, nhìn là biết ngay. Ông ấy muốn ai cũng nghe được, muốn có khán giả. Nhưng diễn dở ẹt.”
“Cô có nhớ ông ấy nói gì không?” Strike hỏi, rút sổ ghi chép ra. Al thích thú quan sát.
“Nhiều lắm. Ông ta chửi bà đi cùng là đồ quỷ cái, rằng bà ấy nói dối, rồi nói sẽ tự tung sách ra, mặc kệ bà ấy. Nhưng rõ là ông ta đang sướng miệng,” cô nói. “Rõ là làm màu.”
“Còn Eliz… bà đó thì sao?”
“Ôi, bà đó giận bốc khói,” Loulou vui vẻ kể. “Bà đó thì không hề giả vờ. Ông ta càng làm màu, khoa chân múa tay la hét thì mặt bà ấy càng đỏ lên – giận run người, gần như không kìm được. Bà ấy nói cái gì mà ‘kéo theo con đàn bà ngu ngốc đó’. Tôi nhớ là tới đó thì ông ta bỏ đi, để bà ấy trả tiền, ai cũng nhìn chằm chằm – trông bà ấy mất mặt lắm. Tôi thấy tội nghiệp bà ấy.”
“Rồi bà ấy có chạy đuổi theo không?”
“Không, chỉ trả tiền rồi vào nhà vệ sinh một lúc. Lúc đó tôi nghĩ có khi bà ấy khóc. Rồi đi về.”
“Thông tin rất có ích,” Strike đáp. “Cô không nhớ thêm được hai người nói gì với nhau sao?”
“À,” Loulou bình thản đáp, “ông nhà văn hét là, ‘Chỉ vì
Fancourt và cái của nợ dặt dẹo của lão.’” Strike và Al nhìn cô chằm chằm.
“‘Chỉ vì Fancourt và cái của nợ dặt dẹo của lão?’” Strike lặp lại.
“Đúng vậy,” Loulou đáp. “Tới chỗ đó thì cả nhà hàng lặng phắt như tờ…”
“Lặng quá đi chứ,” Al bình luận, cười khì.
“Bà ấy cứ cố la hét, nạt cho ông ta nín, tức kinh lắm. Nhưng ông này cũng chẳng vừa gì. Khoái được chú ý mà, nhìn biết ngay.
“Giờ tôi phải đi đây,” Loulou kết thúc, “xin lỗi.” Cô đứng dậy, buộc tạp dề trở lại. “Tạm biệt nhé Al.”
Cô không biết tên Strike, nhưng mỉm cười với hắn trước khi tất bật đi khỏi.
Daniel Chard ra về, cái đầu hói lại xuất hiện giữa đám đông. Chard đi cùng với một nhóm người khoảng cùng tuổi, cũng lịch lãm như thế. Cả hội vừa đi vừa nói, gật gù với nhau. Strike nhìn họ mà mải suy nghĩ tận đâu đâu. Hắn không để ý thấy nhân viên phục vụ vừa đến dọn đĩa.
Chỉ vì Fancourt và cái của nợ dặt dẹo của lão…
Kỳ lạ thật.
“Tôi không thể từ bỏ cái ý nghĩ chính Owen là hung thủ. Chính anh ta dàn dựng hết.”
“Anh không sao chứ?” Al hỏi.
Một mẩu giấy với dấu nụ hôn: Đã đến lúc tính sổ cho cả hai ta…
“Ờ,” Strike đáp.
Lắm máu me, biểu tượng kỳ quái… Chỉ cần bơm anh ta một chút thì muốn gì anh ta cũng sẽ làm… hai người lưỡng tính, hai cái bị vấy máu… Một linh hồn lạc lối đẹp đẽ, lão nói vậy với tôi đó… con tằm là phép ẩn dụ chỉ nhà văn, ý là nhà văn cũng phải trải qua bao đau đớn mới có được tác phẩm hay…
Như một guồng quay, một loạt những chi tiết rời rạc lướt qua trong tâm trí hắn, rồi lắp vào đúng trình tự, không còn gì tranh cãi, không thể phủ nhận. Hắn xoay đi xoay lại cái giả thuyết đó trong đầu: hoàn hảo, vừa vặn, chắc chắn.
Vấn đề là hắn vẫn chưa nghĩ ra được cách chứng minh giả thuyết ấy.