Con tằm

39



Ta đã quá quen với tuyệt vọng, nên chẳng còn biết trông mong…

Thomas Dekker and Thomas Middleton
The Honest Whore

Đúng như luật sư đã đoán, Leonora Quine chính thức bị kết tội giết chồng lúc mười một giờ sáng hôm sau. Được báo qua điện thoại, Strike và Robin dõi theo tin tức lan truyền trên mạng. Câu chuyện lan đi từng phút, như một thứ vi khuẩn sinh sôi nảy nở. Mười một giờ ba mươi, trang web của báo The Sun đã có nguyên một bài dài về Leonora, lấy tựa NỮ SÁT THỦ CÓ NGOẠI HÌNH GIỐNG ROSE WEST TỪNG PHỤ VIỆC Ở HÀNG THỊT.

Cánh phóng viên đã rất bận rộn thu thập bằng chứng cho thấy Quine là ông chồng chẳng ra gì. Chuyện Quine thường xuyên đi vắng giờ đã được liên hệ tới chuyện bồ bịch liên miên, những chủ đề tình dục trong sách của Quine cũng được đem ra mổ xẻ, thêu dệt. Kathryn Kent đã bị đón đường, chụp hình và chết danh “người tình tóc đỏ gợi cảm của Quine, cũng là một nhà văn viết tiểu thuyết khiêu dâm.”

Quá trưa, Ilsa gọi lại cho Strike.

“Ngày mai sẽ ra tòa.”

“Ở đâu?”

“Wood Green, mười một giờ. Chắc là sẽ đi thẳng từ đó về nhà tù Holloway.”

Strike từng sống với mẹ và em gái Lucy trong một căn nhà chỉ cách nhà tù nữ biệt giam ở phía Bắc London ba phút.

“Mình muốn gặp bà ấy.”

“Bồ cứ thử đi, nhưng mình không nghĩ bên cảnh sát muốn bồ tới gần bà ấy đâu, Corm à. Là luật sư của bà ấy, mình cũng phải nói thẳng với bồ, sẽ không…”

“Ilsa à mình là hi vọng duy nhất của bà ta lúc này.”

“Cảm ơn bồ đã tin tưởng mình,” Ilsa đáp tỉnh bơ.

“Bồ hiểu ý mình mà.”

Hắn nghe tiếng cô bạn thở dài.

“Mình cũng nghĩ cho bồ nữa. Thực tình bồ có muốn cảnh sát…?”

“Bà ấy sao rồi?” Strike cắt ngang.

“Không ổn,” Ilsa đáp. “Xa con bà ấy vật vã lắm.”

Buổi chiều hôm đó đều đặn có những cú điện thoại từ cánh phóng viên và những người quen của Quine, cả hai phía đều thiết tha moi thông tin. Giọng Elizabeth Tassel trầm và khàn đến nỗi Robin tưởng là đàn ông.

“Orlando ở đâu?” bà đại diện tác giả hỏi Strike khi hắn cầm máy, cứ như thể hắn chịu trách nhiệm coi sóc hết thảy người nhà Quine. “Ai giữ nó?”

“Cô ấy ở với hàng xóm, tôi nghĩ thế,” hắn nói, nghe tiếng bà ta khò khè bên kia đầu dây.

“Lạy Chúa, đúng là một mớ bòng bong,” bà ta lào khào. “Leonora… con giun xéo lắm cũng quằn… chừng đó năm… thật không thể tin được…”

Phản ứng của Nina Lascelles cũng chẳng khiến Strike ngạc nhiên mấy, cô ta không giấu nỗi sự nhẹ nhõm như vừa trút được gánh nặng. Vụ án mạng giờ đây đã lùi vào đúng chỗ, không còn mông lung mơ hồ nữa. Cái bóng của nó cũng không còn chạm đến cô ta; sát thủ là người cô ta không quen biết.

“Bà vợ lão trông cũng hơi giống Rose West, nhỉ?” Nina hỏi Strike trên điện thoại. Hắn đoán cô ta đang nhìn trang web của báo The Sun. “Khác chỗ tóc dài.”

Dường như Nina đang có ý chia buồn với Strike. Hắn đã không phá được vụ án. Lần này cảnh sát đã thắng.

“À này, thứ Sáu tôi có vài người bạn đến chơi, anh đến chứ?”

“Không đi được, xin lỗi cô,” Strike đáp. “Tôi hẹn ăn tối với em trai.”

Hắn biết ngay Nina nghĩ hắn nói dối. Có chút ngập ngừng rõ rệt trước hai tiếng “em trai”, y như lúc đó hắn dừng lại để nghĩ cách bịa. Thực ra Strike nhớ là chưa bao giờ nhắc đến Al như em trai của mình. Hắn rất ít khi nói về các em cùng cha khác mẹ.

Trước khi ra về Robin đặt một tách trà trước mặt Strike, khi hắn vẫn ngồi đọc hồ sơ của Quine. Cô thấy rõ hắn đang cố hết sức để che giấu sự giận dữ, cô đoán rằng hắn không chỉ giận Anstis mà còn giận chính mình.

“Chưa xong mà,” cô nói, quấn khăn quanh cổ, chuẩn bị ra về.

“Rồi mình sẽ chứng minh được bà ấy không phải là thủ phạm.”

Từng có lần cô động viên hắn bằng chữ “mình” đó, khi hắn thấy không tin tưởng bản thân. Strike thấy cảm kích, nhưng cảm giác bất lực vẫn bao trùm lên suy nghĩ của hắn. Hắn ghét chuyện phải đứng ngoài rìa, bị bắt ngồi yên mà quan sát kẻ khác lặn ngụp tìm kiếm manh mối, truy lùng dấu vết và thu thập thông tin.

Đêm đó hắn ngồi đọc hồ sơ của Quine đến khuya, xem lại ghi chép từ các cuộc phỏng vấn, kiểm tra lần nữa những tấm hình in ra từ điện thoại. Cơ thể bầm dập của Owen Quine như muốn nói gì đó với hắn trong im lặng, như những cái xác từ xưa nay vẫn thế, câm nín cầu cứu, đòi công lý và sự thương xót. Đôi khi nạn nhân còn mang theo thông điệp từ kẻ thủ ác, như thể những dấu hiệu ấy đã được nhét vào những bàn tay chết chóc đông cứng. Strike nhìn khoang ngực trống rỗng bị thiêu cháy một hồi lâu rồi nhìn đến chỗ dây thừng buộc quanh mắt cá và cổ tay. Xác của Quine bị trói và bị moi ruột như con gà tây. Nhưng hắn cố mãi mà vẫn không nhìn ra điều gì mới từ những tấm hình đó. Cuối cùng hắn tắt đèn, lên gác đi ngủ.

Sáng thứ Năm, hắn vừa nhẹ nhõm vừa áy náy khi đến văn phòng luật sư chuyên chém đẹp của thân chủ tóc nâu tại khu Lincoln’s Inn Fields. Nhẹ nhõm vì hắn có thể làm gì đó để giết thời giờ khi không thể tiếp tục điều tra vụ Quine. Nhưng Strike vẫn cảm thấy rằng kỳ thực hắn đã bị ép đến đây. Thân chủ vừa ly dị bản tính õng ẹo, cứ khăng khăng rằng luật sư của bà ta muốn nghe từ tận miệng Strike chuyện hắn thu thập bằng chứng mèo mỡ của ông chồng. Hắn ngồi cạnh thân chủ bên chiếc bàn gỗ gụ bóng loáng, cũng phải đủ chỗ cho mười hai người. Thân chủ liên tục nhắc đến “những thứ Cormoran đã tìm ra” rồi “như Cormoran đã chứng kiến, phải vậy không?” lâu lâu còn đụng vào cổ tay hắn. Strike không mất nhiều thời gian để luận ra, từ vẻ bực bội dường như không che giấu của tay luật sư lịch lãm, rằng anh ta không hề gợi ý mời Strike tới làm gì. Tuy vậy, với mức phí tư vấn tới năm trăm bảng một giờ, tay luật sư cũng chẳng có vẻ nôn nóng gì.

Khi đi vệ sinh Strike kiểm tra điện thoại, thấy trên mạng đã có hình Leonora bị dẫn ra vào Tòa án Hoàng gia Wood Green. Vợ Quine đã bị kết tội, bị xe cảnh sát chở đi. Có khá nhiều phóng viên đến tác nghiệp nhưng chẳng có ai đến đòi nợ máu; suy cho cùng Leonora vừa bị kết tội giết một người chẳng ai quan tâm mấy.

Tin nhắn của Robin xuất hiện khi hắn chuẩn bị vào lại phòng họp:

Sắp cho anh gặp Leonora 6 giờ tối nay nhé?

Tốt, hắn nhắn trả lời.

“Tôi nghĩ rằng,” thân chủ õng ẹo lên tiếng khi hắn ngồi vào chỗ, “Cormoran đây sẽ rất ấn tượng khi đứng ra làm chứng.”

Strike đã đưa hết các ghi chép tỉ mỉ và hình ảnh thu thập được, mô tả rõ mọi giao dịch vụng trộm của ông Burnett, cả vụ cố bán căn hộ và vụ ký gởi chuỗi hạt lục bảo. Burnett phu nhân tiu nghỉu ra mặt khi cả tay thám tử lẫn luật sư đều thấy chẳng có lý do gì khiến Strike phải ra làm chứng. Tài liệu của hắn đã quá rõ ràng. Tay luật sư còn chẳng thèm che giấu vẻ phật ý khi thân chủ dường như tin tưởng gã thám tử quá đà. Chắc hẳn tay này cho rằng những màn đầu mày cuối mắt của nữ thân chủ giàu có vừa ly hôn đáng ra phải dành cho quý ông đóng bộ complet sọc kim, tóc muối tiêu bảnh tỏng là anh ta, thay vì thằng cha trông như võ sĩ đấu lồng xi cà que kia.

Strike thấy nhẹ cả người khi rút khỏi bầu không khí kỳ quặc đó. Hắn đáp tàu điện về lại văn phòng, lên gác nhanh chóng cởi bộ complet và vui vẻ nghĩ đến chuyện sắp xong béng ca này và tấm séc béo bở theo sau – cũng là lý do duy nhất khiến hắn nhận làm. Giờ đây hắn có thể toàn tâm toàn ý tập trung vào người đàn bà gầy gò, tóc bạc, năm mươi mấy tuổi đang ở nhà tù Holloway, vừa được báo chí phong danh hiệu VỢ NHÀ VĂN, CAO THỦ DAO PHAY ngay trên trang hai của tờ Evening Standard mà hắn mua trên đường về.

“Bên luật sư vừa ý không?” Robin hỏi khi hắn về đến văn phòng.

“Cũng tương đối,” Strike đáp, nhìn chằm chằm vào cây thông Noel bé tí teo bằng dây kim tuyến mà Robin đã đặt trên bàn làm việc gọn gàng của cô. Cây thông này cũng có những trái châu tí hon và đèn LED trang trí hẳn hoi.

“Chi vậy?” hắn hỏi cụt ngủn.

“Giáng Sinh mà,” Robin đáp, khẽ cười nhưng không hề tỏ vẻ ái ngại gì cả. “Tôi định chưng ra hôm qua nhưng sau khi Leonora bị buộc tội thì thấy chán quá. À, tôi đã sắp xếp để anh gặp bà ấy lúc sáu giờ. Anh nhớ đem theo giấy tờ tùy thân có ảnh…”

“Làm tốt lắm, cảm ơn cô.”

“… với tôi đã mua bánh mì cho anh, à tôi nghĩ có khi anh muốn xem cái này,” cô nói tiếp. “Michael Fancourt vừa có phỏng vấn về Quine.”

Cô đưa cho hắn một túi bánh mì kẹp phô mai và dưa góp cùng với tờ báo The Times, đã mở sẵn đúng trang. Strike thả người xuống chiếc sofa bọc da phì phọt, vừa ăn vừa đọc bài báo. Bài báo đăng kèm theo một tấm ảnh chia làm hai. Phía bên trái là hình Fancourt đứng trước một dinh thự đồng quê kiểu thời Elizabeth. Hình chụp từ dưới lên nên trông đầu ông ta không mất cân xứng như ở ngoài. Phía bên phải là hình Quine, lập dị, cặp mắt dài dại. Quine đội mũ nỉ rộng vành có gắn lông chim, đang nói chuyện trước một mớ độc giả thưa thớt bên trong lều bạt.

Tác giả bài báo cứ nhắc mãi chuyện Fancourt và Quine từng biết nhau khá rõ, đã có lúc được đánh giá là hai tài năng ngang ngửa.

Hầu như chẳng ai còn nhớ đến ‘Tội lỗi của Hobart,’ tiểu thuyết có tính đột phá của Quine, mặc dù Fancourt vẫn hết lời khen rằng đây là tác phẩm điển hình cho cá tính tàn bạo độc đáo trong văn chương của nhà văn xấu số. Mặc dù nổi tiếng thù dai, Fancourt tỏ ra vô cùng hào phóng khi nói chuyện về tác phẩm của bạn cũ.

“Luôn thú vị nhưng lại không được đánh giá tương xứng,” ông nói. “Tôi nghĩ rằng cánh phê bình trong tương lai sẽ đánh giá Quine cao hơn giới đương thời.”

Sự hào phóng đột ngột này càng bất ngờ hơn khi ta nghĩ đến chuyện 25 năm trước đây, Elspeth Kerr – người vợ đầu của Fancourt, đã tự tử sau khi đọc một bài nhại đầy ác ý về tiểu thuyết đầu tay của mình. Nhiều người tin rằng tác giả bài nhại chính là người bạn thân của Fancourt, tài năng văn chương nổi loạn cùng thời: Owen Quine quá cố.

“Người ta có thể nguôi ngoai lúc nào không biết – hẳn là sự bù đắp của tuổi già, bởi giận dữ là việc vô cùng mệt mỏi. Tôi đã tự mở lòng khá nhiều về cái chết của Ellie trong cuốn tiểu thuyết mới nhất, mặc dù tác phẩm đó không phải là tự truyện…”

Strike lướt qua hai đoạn tiếp theo, chủ yếu để quảng cáo cuốn sách sắp ra của Fancourt. Mắt hắn dừng lại ở từ “bạo lực” như muốn nhảy ra khỏi trang báo, hắn đọc kỹ tiếp.

Thật khó dung hòa một Fancourt mặc áo khoác vải tweed đang ngồi trước mặt tôi đây, với người từng tự mô tả mình là một kẻ nổi loạn trong văn chương, từng được tán dương và chỉ trích bởi chất bạo lực vô độ nhưng độc đáo ở những tác phẩm thời đầu.

“Nếu Graham Green đã nói đúng,” nhà phê bình Harvey Bird nhận xét về tiểu thuyết đầu tiên của Fancourt, “rằng nhà văn cần có một chút băng giá trong tim, thì Michael Fancourt chắc chắn có dư thừa. Đọc cảnh hiếp dâm trong ‘Bellafront’ người ta ngờ rằng gan ruột nhà văn hẳn như sông băng. Có hai cách để nhìn nhận ‘Bellafront’, đã rõ là một tác phẩm xuất sắc, đầy sáng tạo. Cách thứ nhất: Fancourt đã viết một tiểu thuyết đầu tay đạt độ chín khác thường, nhà văn đã biết kìm lại, không đặt mình vào nhân vật chính (phản) diện. Ta có thể nhăn mặt trước những thứ ghê tởm kỳ khôi hay vấn đề đạo đức của tác phẩm, nhưng không ai có thể phủ nhận sức mạnh và tính nghệ thuật của ngôn từ. Cách thứ hai, khó nghe hơn, là có lẽ ông Fancourt không có cái bộ phận để người ta đặt chút băng giá vào – nói cách khác, câu chuyện bất nhân kỳ dị đó đã phản ánh đúng quang cảnh nội tâm của nhà văn. Thời gian, và những tác phẩm về sau, sẽ trả lời.”

Fancourt quê gốc ở Slough, là con trai duy nhất của một y tá không chồng. Mẹ ông vẫn còn sống ở ngôi nhà nơi ông lớn lên.

“Bà ấy thích ở đó,” ông nói. “Mẹ tôi có một khả năng yêu thích những thứ tầm thường rất đáng ghen tị.”

Nhà riêng của Fancourt khác xa căn nhà liên kế thời ở Slough. Cuộc trò chuyện của chúng tôi diễn ra trong một phòng khách dài, đầy những món đồ sứ Meissen và thảm Anbusson. Cửa sổ phòng nhìn ra khoảng đất mênh mông của dinh thự Endsor Court.

“Mấy thứ này toàn do vợ tôi lựa,” Fancourt nói, hơi rẻ rúng. “Gu nghệ thuật của tôi rất khác, gắn liền với mặt đất hơn.” Một rãnh lớn cạnh tòa nhà đã được đào sẵn, chuẩn bị đổ bê tông làm móng cho tác phẩm điêu khắc bằng kim loại rỉ, tượng nữ thần Tisiphone. Michael cười, mô tả bức tượng là “được mua ngẫu hứng… thần báo thù án mạng, anh biết đó… một tác phẩm dữ dội. Vợ tôi ghét lắm.”

Rồi câu chuyện bỗng trở về chủ đề ban đầu: số phận khủng khiếp của Owen Quine.

“Tôi vẫn chưa thể suy nghĩ về án mạng của Owen,” Fancourt khẽ nói. “Như nhiều người viết khác, tôi thường tự khám phá cảm xúc bản thân qua viết lách. Đó cũng là cách nhà văn chúng tôi giải thích thế giới chung quanh, cách chúng tôi cố hiểu nó.”

Có nghĩa là chúng ta có thể chờ đón một tác phẩm văn học xoay quanh cái chết của Quine?

“Ngay lúc này tôi đã nghe thấy những lời chỉ trích về tội chọn chủ đề bất nhã và thói ăn theo rồi đây,” Fancourt mỉm cười. “Bây giờ mà viết về chủ đề tình bằng hữu bị đánh mất, về cơ hội ngồi lại cuối cùng, rồi thanh minh hòa giải các thứ chắc hợp thời lắm. Nhưng án mạng của Quine đã được đưa vào văn chương một lần rồi – bởi chính ông ấy.”

Fancourt là một trong số ít những người từng đọc bản thảo tai tiếng này, cũng chính là công thức vụ án mạng.

“Tôi đọc đúng vào hôm người ta tìm ra xác Quine. Bên nhà xuất bản muốn tôi đọc – tôi có trong sách mà, anh thấy đó.” Fancourt dường như thực sự không bận lòng đến việc mình bị đưa vào sách, mặc dù chân dung đó chẳng tốt đẹp gì. “Tôi cũng không muốn gọi luật sư. Tôi khinh thường mọi sự kiểm duyệt.”

Vậy nhà văn nghĩ gì về cuốn sách đó, đứng về góc độc văn chương?

“Cuốn sách thuộc thể loại mà Nabokov gọi là kiệt tác của một kẻ loạn trí,” Fancourt mỉm cười đáp. “Biết đâu người ta sẽ cho in nó ở thời điểm thích hợp?” Rõ là nhà văn đang đùa?

“Nhưng tại sao lại không nên xuất bản?” Fancourt hỏi. “Nghệ thuật có sứ mệnh khuấy động tâm tư con người: chỉ xét tiêu chuẩn đó thôi, ‘Bombyx Mori’ cũng đã làm quá sứ mệnh của nó rồi. Vậy nên, tại sao không?” kẻ nổi loạn văn chương hỏi trong dinh thự thời Elizabeth của mình.

“Xuất bản với lời tựa của Michael Fancourt?” tôi gợi ý.

“Nhiều chuyện kỳ lạ hơn đã từng xảy ra,” Michael Fancourt đáp, mỉm cười. “Kỳ lạ hơn nhiều.”

“Trời đất,” Strike lẩm bẩm, quăng tờ báo The Times trở lại bàn Robin, sém tý nữa thì đánh đổ cây thông Noel.

“Anh có thấy chỗ ông ấy nói là chỉ đọc Bombyx Mori vào ngày anh tìm ra xác Quine không?”

“Có,” Strike đáp.

“Ông ấy nói dối,” Robin đáp.

“Mình nghĩ là ông ấy nói dối,” Strike sửa lời cô.

Quyết tâm không vung tiền đi taxi, nhưng tuyết vẫn còn rơi nên Strike bắt chuyến xe buýt số 29. Trời tối dần. Xe chạy về phía bắc, một hành trình hai mươi phút qua những con đường vừa được rải muối chống trượt. Một người đàn bà hốc hác lên xe ở phố Hampstead, dắt theo một cậu bé loắt choắt, đang khóc ti tỉ. Strike linh cảm rằng họ có cùng điểm đến như hắn. Đúng y, đến phố Camden, Strike và người đàn bà đứng dậy để xuống xe, rồi cùng đi dọc theo bức tường trống trơn của nhà tù Hoàng gia HMP Holloway.

“Hôm nay gặp mẹ nha,” bà ta nói với thằng bé. Strike đoán là hai bà cháu, mặc dù trông bà ta chỉ khoảng bốn mươi tuổi.

Với đám cây cối trụi lá và bãi cỏ ngập tuyết bao quanh, nhà tù trông chẳng khác gì một trường đại học hiện đại, trừ những bảng chỉ đường nghiêm trang hai màu trắng xanh và cánh cổng cao gần năm mét gắn chặt với tường, chỉ mở cho xe chở tù. Strike hòa vào dòng người đi thăm nuôi, vài người mang theo trẻ em. Bọn trẻ cứ đòi nghịch mặt tuyết mịn còn nguyên cạnh lối đi. Hàng người dịch chuyển qua khỏi những bức tường đất sét có gờ xi măng và những giỏ hoa treo giờ đã thành quả bóng bằng tuyết trong cái lạnh tê cứng của tháng mười hai. Phần lớn những người thăm nuôi là phụ nữ. Strike nổi bật giữa những người đàn ông đi thăm nuôi, không chỉ bởi vóc dáng quá khổ, mà còn vì hắn không có cái vẻ thảng thốt im lìm như họ. Một thanh niên xăm trổ đầy mình mặc quần jeans lụng thụng đi trước hắn, chân bước lảo đảo. Strike từng thấy các bệnh nhân tổn thương thần kinh ở bệnh viện Selly Oak, nhưng đoán rằng ca trước mặt hắn có lẽ không phải vì kinh qua bom đạn.

Nữ cán bộ mập mạp chuyên kiểm tra giấy tờ tùy thân nhìn bằng lái xe của Strike, rồi ngước lên nhìn hắn.

“Tôi biết anh là ai rồi,” bà ta nói, mắt liếc như dao.

Strike tự hỏi liệu có phải Anstis đã nhờ nhân viên nhà tù báo ngay cho anh ta nếu hắn dám mò đến gặp Leonora. Cũng có thể lắm chứ.

Hắn cố tình đến thật sớm, để tận dụng bằng hết thời gian thăm nuôi. Nhờ vậy hắn có thể thong thả làm một cốc cà phê ở nhà chờ cho thân nhân, do một tổ chức từ thiện chuyên về trẻ em đứng ra điều hành. Căn phòng sáng sủa, gần như vui nhộn, bọn trẻ con ùa đến với đám gấu bông và xe tải đồ chơi như gặp bạn cũ. Người đồng hành hốc hác từ trên xe buýt ngồi đó, gầy gò, trơ trơ nhìn theo thằng cháu đang chơi với búp bê Action Man dưới chân Strike, như thể hắn là một bức tượng khổng lồ (Tisiphone, thần báo thù án mạng…)

Sáu giờ đúng, hắn được gọi vào phòng thăm. Tiếng bước chân dội lại trên nền nhà bóng loáng. Tường chung quanh toàn bê tông khối, nhưng những bức tranh tường rực rỡ do tù nhân vẽ cũng làm dịu bớt không gian tối tăm như hang, vang vọng tiếng chìa khóa leng keng và tiếng rì rầm nói chuyện. Ghế nhựa gắn cố định hai bên bàn nhỏ thấp ở giữa, cũng bắt cố định, để giảm thiểu tiếp xúc giữa tù nhân và người thăm cũng như tránh tuồn hàng lậu. Một đứa nhỏ khóc ré lên. Cán bộ quản giáo đứng dọc theo tường, quan sát. Trước giờ Strike chỉ mới tiếp xúc với tù nhân nam, tự dưng hắn thấy ghê tởm chốn này. Đám trẻ con giương mắt nhìn những người mẹ hốc hác; những dấu hiệu tâm thần nhỏ của các nữ phạm như liên tục ngọ nguậy, co kéo những ngón tay đã bị cắn sạch móng; dáng vẻ uể oải do dùng quá nhiều thuốc, những hình người rúm ró trên ghế nhựa… Quang cảnh khác xa với nhà tù nam mà hắn từng biết.

Leonora ngồi đó chờ đợi, nhỏ bé và ốm yếu, mừng rỡ đến tội nghiệp khi thấy hắn. Bà ta vẫn mặc quần áo thường, như bơi trong chiếc áo len quá khổ và quần dài.

“Orlando có vào rồi,” bà ta nói. Hai mắt Leonora đỏ cay; hẳn bà ta đã khóc suốt. “Không muốn bỏ tôi lại. Họ lôi nó ra. Không để tôi dỗ nó.”

Leonora không tỏ thái độ giận dữ hay phản đối thường thấy, Strike cảm tưởng như bà ta đã bắt đầu thấm mùi vô vọng của nhà tù. Bốn mươi tám tiếng bị giam đã dạy Leonora rằng bà ta đã hoàn toàn bất lực, mất quyền kiểm soát.

“Leonora này, ta phải nói chuyện tờ hóa đơn thẻ tín dụng đó.”

“Tôi chưa bao giờ giữ cái thẻ đó,” bà ta nói, cặp môi trắng bệch run rẩy. “Owen lúc nào cũng giữ mà, tôi không bao giờ giữ, trừ khi thỉnh thoảng tôi phải đi siêu thị. Ổng chỉ đưa tiền mặt thôi.”

Strike nhớ lại lần đầu tiên Leonora đến tìm hắn cũng vì nhà sắp hết tiền.

“Tôi để Owen lo hết chuyện tiền nong, ổng cũng muốn vậy, nhưng ổng vô ý lắm, không bao giờ kiểm tra hóa đơn, sao kê ngân hàng gì cả, chỉ vứt vô văn phòng vậy thôi. Hồi đó tôi hay nhắc, ‘Ông kiểm tra xem sao, coi chừng người ta ăn chặn mình à,’ nhưng ổng có quan tâm gì đâu. Gì cũng đưa cho Orlando làm giấy vẽ được, vậy nên tờ hóa đơn mới có tranh của…”

“Quên chuyện bức tranh đi. Hẳn có một người nữa biết số thẻ tín dụng đó. Bây giờ mình sẽ coi qua một số người, được không?”

“Được rồi,” bà ta lẩm bẩm, rụt rè.

“Elizabeth Tassel coi sóc việc sửa nhà ở phố Talgarth, đúng không? Vụ đó trả tiền kiểu gì? Bà ấy có dùng thẻ tín dụng của nhà chị không?”

“Không,” Leonora đáp.

“Chị chắc không?”

“Ừ, chắc mà, vì tụi tôi có đưa cho bả nhưng bả nói thôi có gì lấy tiền sách của Owen bù vô cũng được, vì lúc đó sắp có đợt tiền sách mới. Sách Owen bán rất chạy ở Phần Lan, không biết tại sao, nhưng người ta thích…”

“Chị không thể nghĩ ra được có lúc nào Elizabeth Tassel kêu thợ sửa nhà rồi dùng thẻ đó sao?”

“Không,” bà ta đáp, lắc đầu. “Không bao giờ.”

“Được rồi”, Strike tiếp, “chị có nhớ được – cứ từ từ suy nghĩ nhé – có dịp nào Owen mua gì rồi trả bằng thẻ tín dụng ở nhà xuất bản Roper Chard không?”

Hắn sửng sốt khi bà ta đáp, “Không chính xác là ở Roper Chard, nhưng mà có. Hôm đó đủ mặt hết. Có tôi nữa. Hôm đó là… tôi không nhớ… chừng hai năm trước? Có lẽ gần hơn… tiệc chiêu đãi nhà xuất bản, ở khách sạn Dorchester. Họ sắp tôi với Owen ngồi chung bàn với mấy người cấp dưới. Daniel Chard và Jerry Waldegrave ngồi xa lắc à. À rồi có đấu giá im lặng, anh biết không, tức là mình viết ra giấy…”

“Ừ, tôi biết rồi,” Strike nói, cố giữ kiên nhẫn.

“Vụ đó để gây quỹ cho một tổ chức từ thiện cho nhà văn, để vận động cho các nhà văn đang bị cầm tù. Vậy là Owen mua kỳ nghỉ cuối tuần ở khách sạn đồng quê, đấu giá được nên ổng phải cà thẻ luôn. Mấy đứa con gái bên nhà xuất bản cũng có ở đó, ăn diện màu mè, mang máy ra cà thẻ cho ổng. Ổng đưa thẻ luôn cho tụi nó. Tôi nhớ vì lúc đó ổng đang say mà,” bà ta kể, vẻ dằn dỗi như ngày trước khẽ thoáng qua, “rồi ổng chi tám trăm bảng. Khoe của. Ra vẻ ổng kiếm được nhiều tiền như mấy ông kia.”

“Ông ấy đưa thẻ tín dụng cho một cô gái bên nhà xuất bản,” Strike lặp lại. “Cô đó cà thẻ tại bàn hay…?”

“Máy cà thẻ cầm tay không đọc thẻ được,” Leonora kể. “Vậy là cổ đem thẻ đi vô trong rồi lát sau đem ra trả lại.”

“Chị có nhận ra ai khác ở đó nữa không?”

“Michael Fancourt cũng có dự, với cả người bên nhà xuất bản của ổng,” bà ta kể, “ngồi phía bên kia phòng. Lúc đó ổng vẫn chưa chuyển về Roper Chard.”

“Ông ấy có nói chuyện với Owen không?”

“Chắc không,” bà ta đáp.

“Được rồi, còn…?” hắn nói, rồi ngắc ngứ. Cả hai chưa bao giờ thừa nhận sự tồn tại của Kathryn Kent.

“Cô bồ ổng có thể lấy thẻ bất cứ lúc nào, phải vậy không?” Leonora nói, như thể bà ta đang đọc suy nghĩ của hắn.

“Chị biết vụ đó hả?” hắn hỏi lại, bình thản.

“Cảnh sát có nói,” Leonora buồn bã. “Lúc nào ổng cũng có ai đó. Kiểu ổng vậy mà. Toàn gặp ở lớp viết văn ổng dạy. Hồi trước tôi làm dữ lắm. Lúc cảnh sát kể là ổng bị… lúc họ nói ổng bị… ổng bị trói lại…”

Leonora lại khóc.

“Tôi biết ngay thủ phạm là đàn bà. Ổng thích vậy mà. Thích kiểu đó.”

“Chị không biết gì về Kathryn Kent cho tới khi cảnh sát nói ra hay sao?”

“Có lần tôi thấy tên cổ trên tin nhắn điện thoại của Owen, nhưng ổng nói không có gì hết. Nói cổ là học trò. Lần nào cũng nói vậy à. Nói là không bao giờ bỏ hai má con tôi…”

Bà ta lấy mu bàn tay run run chặm mắt sau tròng kính cổ lỗ sĩ.

“Nhưng chị chưa bao giờ gặp Kathryn Kent trước cái ngày chị ta đến tìm chị, nói là chị gái đã chết, phải không?”

“Là cô đó à?” Leonora hỏi lại, sụt sùi, vén tay áo chặm mắt. “Cô đó mập ha? Thì cổ muốn xem số thẻ lúc nào chẳng được, phải vậy không? Ví dụ đợi ổng ngủ rồi rút ví ra.”

Lúc này dễ gì đi phỏng vấn Kathryn Kent, Strike đã biết. Hắn nghĩ có khi chị ta đã trốn khỏi căn hộ, chỉ để tránh mặt báo giới.

“Những thứ mà sát thủ mua bằng thẻ,” hắn nói tiếp, đổi bài, “đều mua trên mạng cả. Chị không có máy tính ở nhà, đúng không?”

“Owen ghét máy tính, ổng thích máy đánh chữ…”

“Chị có bao giờ mua gì trên mạng chưa?”

“Có,” bà ta đáp, Strike thấy lòng chùng xuống một nấc. Hắn từng hi vọng biết đâu Leonora thuộc loại sinh vật gần tuyệt chủng: một người không sử dụng máy tính.

“Chị mua ở đâu?”

“Ở nhà Edna, chị ta cho tôi mượn máy để mua bộ đồ vẽ làm quà sinh nhật cho Orlando, để tôi khỏi mất công đi vào thành phố,” Leonora đáp.

Chắc chắn cảnh sát sẽ sớm tịch thu và tháo bung chiếc máy tính của Edna tốt bụng.

Nữ phạm nhân đầu trọc, có hình xăm trên môi ở bàn bên cạnh bắt đầu la hét gây sự với một cán bộ quản giáo, người vừa nhắc nhở phạm nhân ngồi yên. Leonora rúm ró cả người khi cô ta tuôn ra một tràng tục tĩu, cán bộ quản giáo chạy tới gần.

“Leonora này, còn một việc nữa,” Strike lớn giọng, màn la hét ở bàn bên cạnh cũng vừa lên tới cao trào. “Owen có nói gì với chị là ông ấy sắp đi đâu xa, đi nghỉ gì đó, trước hôm ngày mùng Năm không?”

“Không,” bà ta đáp, “làm gì có.”

Phạm nhân bàn bên cạnh đã chịu nín. Người thăm nuôi cô ta, một phụ nữ cũng xăm trổ tương tự, trông chỉ hiền hơn một chút, chĩa ngón tay thối về phía cán bộ khi người này quay lưng đi.

“Chị không nhớ được Owen có nói gì, hay làm gì, cho thấy ông ấy dự định đi xa một thời gian sao?” Strike cố hỏi tiếp khi Leonora cứ thao láo nhìn về bàn bên cạnh, lo lắng.

“Gì kia?” bà ta lơ đãng hỏi. “Không… ổng không nói gì… có nói gì với tôi đâu… lúc nào cũng bỏ đi vậy thôi… Nếu ổng đã có ý định đi đâu, tại sao không chào tạm biệt một tiếng?” Bà ta lại bật khóc, bàn tay gầy gò bụm lấy miệng.

“Dodo sẽ ra sao nếu họ cứ giữ tôi trong tù?” bà ta hỏi giữa những tiếng nức nở. “Edna làm sao chăm nó mãi được. Bà ấy không trị được nó. Bà ấy đi ra ngoài, để Khỉ Khọt lại, Dodo có vẽ cho tôi vài bức,” sau vài giây bối rối Strike đoán hẳn bà ta đang nói về con khỉ bông mà Orlando ôm lúc hắn ghé nhà. “Nếu họ bắt tôi ở lại đây…”

“Tôi sẽ đưa chị ra,” Strike nói, bạo miệng là chính, nhưng có hại gì nếu Leonora có thêm một chút niềm tin để tựa vào mà sống tiếp hai mươi bốn giờ nữa?

Hết giờ thăm nuôi. Strike rời phòng thăm mà không ngoái đầu nhìn lại. Hắn tự hỏi phải chăng mình đang thương hại Leonora, người đàn bà năm mươi tuổi tàn tạ cáu kỉnh với đứa con gái thiểu năng và một cuộc sống vô vọng… phải chăng vì thế mà hắn thấy quyết tâm dữ dội, thấy giận sôi người…

Vì bà ấy không phải là thủ phạm, chỉ đơn giản là vậy. Vì bà ấy vô tội.

Tám tháng qua một loạt khách hàng đã đẩy cánh cửa gương có khắc tên hắn bước vào, với những lý do giống nhau đến kỳ lạ. Họ tìm đến hắn vì muốn có một tay gián điệp, một thứ vũ khí, một phương tiện thay đổi cán cân lợi thế, hay để rũ bỏ những mối quan hệ bất tiện. Họ tìm hắn vì mưu lợi, vì họ nghĩ rằng họ phải được bồi thường, được đền đáp. Bởi vì phần lớn, họ đều tham tiền.

Nhưng Leonora đã đến tìm hắn vì bà ta muốn ông chồng quay về nhà. Một ước muốn đơn giản, xuất phát từ sự mệt mỏi và tình yêu thương, nếu không phải dành cho một Quine lầm lạc thì là tình thương cho đứa con gái đang nhớ cha. Chính vì ước muốn của Leonora trong sáng như vậy, Strike thấy hắn phải làm hết sức mình.

Không khí lạnh bên ngoài nhà tù như có vị khác. Đã lâu rồi Strike mới lại ở trong một môi trường đòi hỏi sự phục tùng tuyệt đối. Hắn cảm nhận rõ hai chữ tự do khi bước ra về, tì người lên cây gậy chống, tiến đến trạm xe buýt.

Ở phía cuối xe, ba cô gái trẻ say xỉn, đội mũ sừng tuần lộc đang hát hò:

“They say it’s unrealistic,

But I believe in you Saint Nick…”[2]
[2] “Người ta cứ nói làm gì có, nhưng em tin ông Noel là thật đó” – Lời bài hát Oh Santa – ND

Giáng Sinh với chả giáng siếc, Strike tự nhủ, bực bội nghĩ đến những món quà phải mua cho mấy đứa cháu và con đỡ đầu mà hắn chẳng nhớ nổi đã bao tuổi.

Chiếc xe buýt gầm gừ trên mặt tuyết xốp lẫn bùn đất. Đèn đủ màu chớp nhòa trước mắt hắn qua cửa sổ xe mờ hơi nước. Hắn cau mày, vẫn còn nghĩ đến bất công và án mạng. Với bộ mặt đó, hắn vô tình làm chùn bước bất kỳ vị khách nào dám có ý định ngồi xuống ghế bên cạnh.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.